Tiểu luận Cổ phiếu

MỤC LỤC

.

Chương 1. PHẦN MỞ ĐẦU .4

Chương 2. NỘI DUNG . . . 5

2.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 5

2.1.1. Khái niệm: 5

2.1.2. Các loại 5

2.2. CỔ PHIẾU. 6

2.2.1. Khái niệm. 6

2.2.2. Các đặc điểm của cổ phiếu. 7

2.2.3. Phân loại cổ phiếu 8

2.2.4. Thị trường cổ phiếu 11

2.2.4.1. Tại sao lại phát hành trái phiếu? 12

2.2.4.2 Khi nào phát hành cổ phiếu? 12

2.2.4.3 Thị trường cổ phiếu 13

Chương 3. KẾT LUẬN . .19

TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1799 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cổ phiếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình bày Power Point Khuê, Khuyên, Diễm, Uyên Thuyết trình Vân MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………….......... Chương 1. PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..4 Chương 2. NỘI DUNG………………………….………………………………………..…...…5 CHƯƠNG 1. PHẦN MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam năm 2010 đạt mức tăng trưởng 6,78%, đang trong giai đoạn phát triển sôi động. Một đất nước được coi là phát triển thực sự nếu thị trường tài chính của nước đó hoạt động nhanh nhạy và hiệu quả. Là hạt nhân trung tâm của Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán luôn thể hiện tốt vai trò tạo vốn và chu chuyển vốn linh hoạt hơn trong nền kinh tế, là cầu nối giữa một bên là các nhà đầu tư với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đang có những bước chuyển đổi mạnh mẽ và đó cũng là xu thế tất yếu khi Việt Nam chủ động bước vào hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Để có một bước tiến như thế thì yếu tố nguồn vốn giữ vai trò quan trọng, điều đó đòi hỏi cần đẩy nhanh việc huy động nguồn vốn dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là rất cần thiết. Đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển nhanh nền kinh tế đất nước Vừa qua, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển đáng kể cả về quy mô và chất lượng hàng hóa trên thị trường, và đặc biệt là chú trọng phát triển thị trường cổ phiếu. Đó là lý do thôi thúc chúng em thực hiện đề tài “Cổ phiếu” để có thể giải thích nguyên nhân trên. CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2.2.1 Khái niệm Chứng khoán là hàng hóa trên thị trường chứng khoán, là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối vời tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Là một phương tiện có thể thỏa thuận và có thể thay thế được, đại diện cho một giá trị tài chính, được thể hiện bằng hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. 2.2.2 Các loại chứng khoán Chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, chứng khoán phái sinh. Cổ phiếu là chứng từ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc vồn của một công ty cổ phần. Người sở hữu cổ phiếu sẽ trở thành cổ đông của công ty cổ phần đó. Trái phiếu là một loại chứng khoán xác định nghĩa vụ trả nợ (cả vồn gốc và lãi ) của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Người sở hữu trái phiếu sẽ trở thành trái chủ, tức là chủ nợ của một tổ chức phát hành (có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty ). Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sơ hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Là phương tiện để thành lập quỹ của một quỹ đầu tư chứng khoán mà ngành nghề hoạt động chính là chơi chứng khoán. Chứng khoán phát sinh là công cụ được phát hành trên cở sở những công cụ đã có: cổ phiếu, trái phiếu, là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc để đảm bảo nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. CỔ PHIẾU 2.2.1 Khái niệm cổ phiếu Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cá nhân tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của luật doanh nghiệp 2005. Tài sản của cổ đông = tài sản của công ty sở hữu – các khoản nợ của công ty Cổ tức là hình thức chia sẻ lợi nhuận của công ty dựa trên tỉ lệ sở hữu.Tỉ lệ và hình thức chia cổ tức do HĐND quyết định.Chỉ được chia cổ tức khi có lãi hoặc từ lợi nhuận để lại. Tỉ suất cổ tức hiện hành = Cổ tức nhận trong cả năm/giá thị trường của cổ phiếu. Các nội dung chủ yếu của cổ phiếu là Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty. Số và ngày cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh Số lượng cổ phần và loại cổ phần Mệnh giá (par value/face value/norminal value) mỗi cổ phần và tong mệnh giá Họ tên địa chỉ và các chi tiết khác của cổ đông Thủ tục chuyển nhượng cổ phần Chữ kí mẫu của đại diện công ty và dấu của công ty Số đăng kí và ngày phát hành cổ phiếu Các nội dung khác nếu đó là cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu của Baltimore and Ohio Railroad ở Mỹ, phát hành năm 1903 2.2.2 Đặc điểm của cổ phiếu Tính thanh khoản cao: Cổ phiếu có khả năng chuyển hóa thành tiền mặt dễ dàng. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: Thứ nhất, kết quả kinh doanh của tổ chức phát hành (công ty có cổ phiếu niêm yết). Nếu tổ chức phát hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, trả cổ tức cao, cổ phiếu của công ty sẽ thu hút nhà đầu tư và cổ phiếu thực sự dễ mua bán trên thị trường. Ngược lại nếu công ty làm ăn kém hiệu quả không trả cổ tức hoặc cổ tức thấp, cổ phiếu của công ty sẽ giảm giá và khó bán. Thứ hai là mối quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán: Thị trường cổ phiếu cũng như các loại thị trường khác đều chịu sự chi phối của qui luật cung cầu. Giá cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào chất lượng công ty mà còn phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nhà đầu tư. Tuy một loại cổ phiếu rất tốt nhưng thị trường đang bão hòa nguồn cung (nhiều hàng bán) thì cổ phiếu đó cũng khó tăng giá. Ngược lại khi thị trường khan hiếm hàng hóa thì ngay cả những cổ phiếu chất lượng kém hơn cũng có thể bán dễ dàng. Có tính lưu thông: Tính lưu thông khiến cổ phiếu có giá trị như một loại tài sản thực sư, nếu như tính thanh khoản giúp cho chủ sở hữu cổ phiếu chuyển cổ phiếu thành tiền mặt khi cần thiết thì tính lưu thông giúp chủ sở hữu cổ phiếu thực hiện được nhiều hoạt động như thừa kế tặng cho để thục hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Tính tư bản giả: Cổ phiếu có tính tư bản giả tức là cổ phiếu có giá trị như tiền. Tuy nhiên cổ phiếu không phải là tiền và nó chỉ có giá trị khi được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị của cổ phiếu. Tính rủi do cao: Phụ thuộc vào thông tin và tình hình phát triển, chính trị. Giá trị cổ phiếu luôn biến động theo các yếu tố này. 2.2.3 Phân loại cổ phiếu Có nhiều cách phân loại cổ phiếu. Căn cứ vào việc lưu hành trên thị trường Cổ phiếu lưu hành (out standing): số cổ phiếu đang nằm trong tay cổ đông của công ty. Cổ phiếu ngân quỹ (treasury): là cổ phiếu công ty đã phát hành và mua lại từ cổ đông trên thị trường thứ cấp. Cổ phiếu ngân quỹ không có quyền bầu cử và không được nhận cổ tức. Công ty có thể giữ cổ phiếu vô hạn,huỷ hay bán ra. Căn cứ vào việc phát hành vốn điều lệ Cổ phiếu sơ cấp (primary) là cổ phiếu được phát hành lần đầu tiên và tiền thuộc về công ti phát hành. Cổ phiếu thứ cấp (secondary) là cổ phiếu lưu hành sau khi đã phát hành cổ phiếu sơ cấp. Căn cứ vào quyền của cổ đông (cách phổ biến nhất) Cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường): là loại cổ phiếu cơ bản của công ty, cho phép cổ đông được hưởng các quyền lợi thông thường trong công ti, được phát hành ra đầu tiên và thu hồi về cuối cùng, cổ đông có quyền biểu quyết và tham gia quyết định tất cả các vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, được hưởng cổ tức theo kết quả kinh doanh. Cổ phiếu ưu đãi (perfected): là loại cổ phiếu phát hành sau cổ phiếu thường, cho phép người nắm giữ được hưởng một số quyền lợi ưu đãi hơn so với cổ phiếu thường. Phân tích ưu nhược điểm của cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi Thứ nhất, cổ phiếu thường Ưu điểm: Một người giữ cổ phiếu thường có thể tham gia bầu ban giám đốc công ty tại cuộc họp các cổ đông hàng năm và có quyền phát biểu về những vấn đề khác, như đạo đức công ty, việc sát nhập, việc mua lại và nắm quyền kiểm soát công ty khác (tiếp quản một công ty bằng cách mua đa số cổ phần của nó). Những người chủ cổ phiếu thường có thể kiếm đươc nhiều tiền, nếu như giá cổ phiếu tăng lên và có thu nhập từ cổ tức. Có quyền ủy quyền cho người khác đại diện cho mình khi họp Đại hội đồng cổ đông. Có quyền ưu tiên mua cổ phiếu phát hành thêm để tránh bị loãng quyền sở hữu. Nhược điểm: Các cổ đông giữ cổ phiếu thường nhận cổ tức sau các cổ đông giữ cổ phần ưu đãi, những người giữ phiếu nợ hoặc trái phiếu. Khi công ty bị thanh lý, những người giữ cổ phiếu thường nhận tài sản cuối cùng so với các thành phần khác. Cổ phiếu thường không ổn định nên có tính rủi ro cao Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi Ưu điểm: Chúng được ưu đãi về lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần của những cổ phiếu ưu đãi phải được trả trước bất kì cổ tức nào được trả cho các cổ phiếu thường. Chúng được ưu đãi về tài sản. Nếu một công ty thất bại, các cổ đông có cổ phiếu ưu đãi được quyền nhận phần của họ về bất cứ tài sản gì còn lại (sau khi nợ của công ty đã thanh toán), trước khi các cổ đông giữ cổ phiếu thường nhận được phần bồi thường nào đó. Một số công ty phát hành những cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi được, nó cho cổ đông quyền chọn để chuyển cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường. Theo quan điểm của cổ đông thì việc chuyển đổi đó sẽ là mong muốn nếu như giá trị của cổ phiếu thường đã tăng vượt lên giá trị của cổ phiếu ưu đãi. Do đó bao gồm cả một điều khoản về có thể chuyển đổi được, làm cho việc phát hành cổ phiếu ưu đãi hấp dẫn hơn đối với những người mua trong tương lai. Phần lớn cổ phiếu ưu đãi tích lũy cổ tức nếu công ty không trả chúng trong một giai đoạn xác định. Công ty phải trả số tiền tích lũy này trước khi họ trả bất kì lợi tức cổ phần nào cho cổ phiếu thường. Ví dụ, nếu General Motors quyết định không trả cổ tức 5 USD cho cổ phần ưu đãi của họ trong năm 1996 và 1997 thì họ sẽ không thể trả cổ tức cho bất kì cổ phần thường nào trong 2 năm đó. Họ cũng không thể trả cổ tức cho cổ phần thường nào đó trong năm 1998 trước khi họ trả 15USD cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi (10USD tích lũy cộng 5USD hiện tại). Cổ phiếu ưu đãi có tính tin cậy và ổn định. Chủ sở hữu có thể tính được lợi tức cổ phần của mình. Nhược điểm: Các cổ đông cổ phiếu ưu đãi giữ một vai trò nhỏ hơn trong các vấn đề của công ty so với các cổ đông cổ phiếu thường: Hoàn toàn không có quyền bỏ phiếu và quyền ưu tiên mua. Họ chỉ nhận được đặc quyền bỏ phiếu hạn chế, thường là những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ như bán đi một phần lớn công ty hoặc thay đổi một điều khoản trong bản điều lệ có lien quan đến cổ phiếu ưu đãi. 2.2.4 Thị trường cổ phiếu Tuy cổ tức của cổ phiếu ưu đãi là cố định, nhưng cổ đông ưu đãi cũng chỉ được nhận cổ tức khi công ty làm ăn có lợi nhuận. 2.2.4.1 Tại sao công ty phát hành cổ phiếu? Công ty huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh bằng hình thức phát hành cổ phiếu thì nguồn vốn huy động đó không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng... thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. Tác dụng của việc phát hành Cổ phiếu Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng ...thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ phiếu tỷ lệ thuận với giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường. 2.2.4.2 Khi nào phát hành cổ phiếu? Cổ phiếu là một hình thức của chứng khoán. Việc phát hành cổ phiếu khi thành lập công ty cổ phần được quy định tại Nghị định số 48/1998/NÐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Do vậy, căn cứ Ðiều 6 Nghị định số 48/1998/NÐ-CP thì điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: 1. Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam 2. Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất 3. Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh 4. Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu. 5. Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15 % vốn cổ phần của tổ chức phát hành. 6. Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20 % vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc việc phát hành. 7. Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. Hai trong bảy điều kiện để một công ty có thể phát hành chứng khoán ra công chúng là: 1. Mức vốn điều lệ tối phiếu là 10 tỷ đồng Việt Nam. 2. Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành. Trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành Theo Ðiều 7 Nghị định số 48/1998/NÐ-CP về điều kiện phát hành thêm cổ phiếu quy định: Tổ chức phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn, ngoài việc phải đáp ứng các quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 7 Ðiều 6 Nghị định 48 này, còn phải đáp ứng các điều kiện sau: 1. Lần phát hành thêm phải cách 1 năm sau lần phát hành trước. 2. Giá trị cổ phiếu phát hành thêm không lớn hơn tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành. 2.2.4.1 Thị trường cổ phiếu a. Cơ cấu tổ chức của thị trường cổ phiếu Bất cứ thị trường cổ phiếu nào, dù mới thành lập hay đã phát triển, đề được cấu thành bởi 2 bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau: Thị trường sơ cấp: là nơi các cổ phiếu lần đầu tiên được phát hành. Việc phát hành cổ phiếu trên thị trường sơ cấp nhằm huy động vốn cho tổ chức phát hành, qua thị trường này những nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng và các tổ chức kinh tế xã hội có thể chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho tổ chức phát hành cổ phiếu. Như vậy, thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường cổ phiếu, đó là chức năng kinh tế: mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử dụng, đưa nguồn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Thị trường thứ cấp: là nơi mua đi bán lại các cổ phiếu đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hòa, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hóa các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn, để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Thị trường thứ cấp là thị trường cạnh tranh tự do, các nhà đầu tư và các công ty môi giới , kinh doanh cổ phiếu được tự do tham gia vào thị trường. Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá cổ phiếu trên thị trường này do quan hệ cung cầu quyết định. Thị trường cổ phiếu sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ tương tác gắn bó chặt chẽ với nhau. Thị trường cổ phiếu sơ cấp tạo ra hàng hóa cho thị trường cổ phiếu thứ cấp. Thị trường cổ phiếu thứ cấp phát triển, có tính thanh khoản cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn ở thị trường sơ cấp và định giá chứng khoán theo cơ chế thị trường. Hai thị trường này có điểm khác nhau cơ bản về nội dung và mục đích. Việc phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút vốn đầu tư cho các đơn vị phát hành. Còn việc giao dịch ở thị trường thứ cấp không góp phần làm tăng thêm một đồng vốn huy động nào, mà chỉ mua bán những chứng khoán đã phát hành ở thị trường sơ cấp mà thôi. b. Chủ thể tham gia của thị trường cổ phiếu Tổ chức phát hành: tổ chức phát hành là tổ chức thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng. Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ công chúng phục vụ cho việc đổi mới công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp. Nhà đầu tư: là tổ chức cá nhân Việt Nam và tổ chức cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường cổ phiếu. Các nhà đầu tư là những người trực tiếp mua cổ phiếu trên thị trường sơ cấp và mua bán lại cổ phiếu trên thị trường thứ cấp, họ là chủ thể tạo nên cầu trên thị trường cổ phiếu. Các tổ chức tài chính trung gian: là cầu nối giữa người mua và người bán cổ phiếu. Các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường cổ phiếu bao gồm: Các tổ chức bảo lãnh phát hành:có chức năng thay mặt cho các tổ chức phát hành chào bán cổ phiếu ra công chúng. Các tổ chức bảo lãnh phát hành thường là các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư. Tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán: thực hiện vai trò làm trung gian giữa người mua và người bán cổ phiếu để hưởng phí môi giới hay tư vấn cho khách hàng về việc đầu tư cổ phiếu. Tổ chức định mức tín nhiệm: thực hiện việc đánh giá và xếp hạng tín nhiệm của một tổ chức phát hành cổ phiếu về khả năng thanh toán nợ vay hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau (như rủi ro về cổ phiếu, về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp…) c. Những yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu Thứ nhất, yếu tố kinh tế: Yếu tố vĩ mô: Tăng trưởng kinh tế: Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển. Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi. Các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ: Khi chính phủ sử dụng các công cụ chính sách của mình để ổn dịnh và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế thì sẽ tác động tích cực và làm cho giá cổ phiếu tăng.   Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm. Lạm phát Tình hình biến động của lãi suất Các yếu tố kinh tế khác Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ. Yếu tố vi mô: Thu nhập của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu: Xét về phương diện dài hạn, giá cổ phiếu thực sự phụ thuộc vào thu nhập của doanh nghiệp cho dù giá cổ phiếu có thể sẽ tăng, giảm hay chững lại trong một khoảng thời gian.  Lượng hàng bán (doanh thu): Lượng hàng bán là chỉ tiêu quan trọng nhất để đo lường một công ty có sức mạnh hay không và là nhân tố chính của tăng trưởng. Cổ tức: Cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp:cơ cấu sở hữu vốn, vốn chủ sở hữu. Quá trình tăng vốn của doanh nghiệp: vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng vốn trong thời gian tới cũng khiến giá cổ phiếu biến động khá mạnh. Thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có thương hiệu và sản phẩm uy tín trên thị trường cùng với hệ thống phân phối và dịch vụ tốt thì giá cổ phiếu của doanh nghiệp thường ở mức cao hơn so với mặt bằng chung. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp: Doanh nghiệp chịu sự quản lý và điều hành bởi các nhà lãnh đạo tài ba. Rủi ro kinh doanh Thứ hai, các yếu tố phi kinh tế: Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên. Còn ngược lại thì giá cổ phiếu của DN sẽ giảm xuống. Thứ ba, yếu tố thị trường: Những biến động về lượng cung tiền: Thay đổi lãi suất chiết khấu: Ngân hàng Trung ương (TW) tăng lãi suất, lượng tiền cơ sở giảm. Mức cho vay của Ngân hàng hạn chế và lãi suất cho vay cao. Người chơi chứng khoáng sẽ chủ yếu dùng tiền của mình, hạn chế không đi vay để chơi chứng khoán nữa. Giảm lượng số lượng người và lượng tiền đầu tư trên thị trường chứng khoán. Ngân hàng TW tăng lãi suất. Lượng tiền cơ sở giảm. Lãi suất tiền gửi của Ngân hàng cao, hấp dẫn (vì muốn thu hút thêm tiền gửi từ dân khi lượng tiền cơ sở giảm). Cộng thêm nếu thị trường chứng khoán không ổn định, rủi ro lớn. Nhà đầu tư chứng khoán sẽ thích gửi tiền Ngân hàng hơn là chơi chứng khoán. Khi chính phủ thay đổi lãi suất chiết khấu thì  thị trường chứng khoán cũng thay đổi theo. Quy định mức dự trữ bắt buộc: Thị trường chứng khoán có ảnh hưởng nhưng không đáng kể. Nghiệp vụ thị trường mở: Thực chất về vĩ mô và lâu dài thì nghiệp vụ thị trường mở có ảnh hưởng tới sự dao động của thị trường chứng khoán về lượng tiền đầu tư chứ không ảnh hưởng đến giá cả các cổ phiếu. Vì nghiệp vụ này khi tiến hành thì hầu hết chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, nay có thêm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần và chỉ rất ít các lọai trái phiếu dân bỏ tiền ra mua. Biến động của thị trường: Sự biến động đó là một thước đo thống kê cho thấy khuynh hướng của một thị trường hoặc một chứng khoán sẽ tăng giá hay rớt giá mạnh trong một khoảng thời gian ngắn nào đó. Tâm lý nhà đầu tư: Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN Ở những nước có nền kinh tế mới nổi, trong đó có Việt Nam, thị trường cổ phiếu thường phát triển mạnh do việc phát hành dễ dàng. Từ năm 2003 đến nay thị trường chứng khoán của Việt Nam đã có bước phát triển thần kỳ. Hiện nay thị trường cổ phiếu vẫn trên đà phát triển, hàng loạt các công ty đã cổ phần hóa và “lên sàn”, đồng thời hình thành hiện tượng người người, nhà nhà mua cổ phiếu. Tuy nhiên các sản phẩm dịch vụ của thị trường cổ phiếu Việt Nam còn khá đơn giản so với khu vực và thế giới. Đa số các nhà đầu tư tham gia trên thị trường cổ phiếu đều có xu hướng hành động bầy đàn và chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tin tức thất thiệt dẫn đến tình hình trên thị trường cổ phiếu luôn biến động, và thậm chí khiến cho giá trị của cổ phiếu rời xa giá trị thực của chúng do chịu ảnh hưởng của tác động cung cầu. Nhìn chung thị trường cổ phiếu ở nước ta tuy có sự phát triển mạnh mẻ nhưng đồng thời vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định. Hiện nay khủng hoảng tàu chính cũng đã qua đi, nền kinh tế các nước  đang từng bước khối phục và phát triển trở lại, việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam vẫn và đang đạt được những kết quả hết sức khả quan. Tuy nhiên không vì vậy mà chúng ta lại c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCổ phiếu.doc
Tài liệu liên quan