Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

I. Khái quát chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử 3

1.1 Chế độ tài sản của vợ chồng trong cổ luật Việt Nam 3

1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Pháp thuộc 3

1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975) 3

1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay 4

II. Khái quát về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 4

III. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng: 7

3.1 Cơ sở lý luận: 7

3.1.1 Cơ sở về quyền bình đẳng của phụ nữ 7

3.1.2 Cơ sở về quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân 9

3.2 Cơ sở thực tiễn 11

IV. Ý nghĩa của việc ghi nhận chế độ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng 12

V. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản riêng của vợ, chồng 13

KẾT LUẬN 15

TÀI LIỆU THAM KHẢO 16

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3167 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững nhu cầu gia vụ bảo đảm đời sống chung của gia đình. 1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ Pháp thuộc Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và cuối cùng đã đầu hàng vô điều kiện. Để thực hiện chính sách “chia để trị”, thực dân pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ luật dân sự Trung kỳ năm 1936 là chế độ cộng đồng toàn sản với quyền gia trưởng của người chồng trong gia đình. Còn ở miền Nam, tập dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 không sự liệu cụ thể về chế độ tài sản của vợ chồng nên được áp dụng theo án lệ, cho đến ngày ra đời luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm. 1.3. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật ở miền Nam nước ta trước ngày thống nhất đất nước (1954 - 1975) Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi chấm dứt thời kỳ kéo dài gần 80 năm Pháp thuộc. Theo hiệp định Giơnevơ, đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt. Miền Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, sau 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong giai đoạn này, vấn đề pháp luật điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình dưới chế độ Ngụy quyền Sài gòn được thể hiện thông qua ba vănn bản luật đó là: Luật gia đình ngày 2/1/1959 dưới chế độ Ngô Đình Diệm đã sự liệu chế độ cộng đồng toàn sản giữa vợ chồng; sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 dưới chế độ Nguyễn Khánh quy định về giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng; Bộ luật dân sự ngày 20/12/1972 dưới chế độ NguyễnVăn Thiệu đã dự liệu chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là chế độ tài sản pháp định áp dụng cho vợ chồng. 1.4. Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình nước ta từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Tính tất yếu khách quan đòi hỏi phải có một hệ thống quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan dần hoàn thiện và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội, có tính khả thi cao từ luật Hôn nhân gia đình năm 1959 đến luật Hôn nhânn – gia đình năm 1986 và 2000. Trong hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng cũng như thực tế các quan hệ hôn nhân – gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình (trong đó có các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng) từ chỗ chưa được quy định cụ thể, đến đó, vợ chồng có quyền bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu và định đoạt tài sản chung, tài sản riêng. II. Khái quát về việc ghi nhận quyền có tài sản riêng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử xã hội, mỗi chế độ xã hội đều quy định một chế độ tài sản giữa vợ chồng cho phù hợp với phong tục tập quán và hoàn cảnh kinh tế xã hội. Trong thời kỳ phong kiến, theo quan điểm Nho giáo, gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng trong xã hội, là nền tảng của xã tắc. Địa vị của người phụ nữ theo triết lý Nho giáo rất thấp kém. Họ không có quyền gì trong gia đình mà bị ràng buộc bởi thuyết tam tòng. Do đó, theo quan điểm nho giáo, hôn nhân là sự chuyển giao uy quyền đối với người phụ nữ từ người cha sang cho người chồng. Tuy nhiên, với sự tiếp nhận các phong tục tập quán dân tộc có lợi cho sự vững mạnh của triều đình mặc dù các phong tục đó không phù hợp với triết lý Nho giáo, Bộ luật nhà Lê đã phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một cách hợp lý mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội việt nam. Vì vậy, địa vị pháp lý của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với quan niệm Nho giáo. Bộ luật nhà Lê công nhận vợ chồng đều có quyền sở hữu đối với tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng là tài sản mà mỗi bên vợ , chồng có trước khi kết hôn, do thừa kế do gia đình của mỗi người. Đối với tài sản này, vợ chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ mặc dù những tài sản này được quản lý chung bởi vợ chồng và các tức lợi của nó là tài sản chung. Những tài sản này chỉ tạm thời gộp vào để vợ chồng quản lý chung trong thời gian hôn nhân. Người chồng không có quyền chiếm dụng tài sản mà vợ được thừa kế từ dòng họ nhà mình và ngược lại, người vợ cũng vậy. Do đó, khi ly hôn thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về sở hữu riêng của người đó và họ có quyền mang theo, trừ trường hợp ly hôn do người vợ có lỗi như gian dâm thì điền sản của vợ phải để lại cho chồng (điều 401). Sự thừa nhận người vợ có quyền sở hữu tài sản riêng là điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật mà không tìm thấy trong pháp luật phong kiến Trung Quốc cũng như trong Hoàng Việt luật lệ vì Hoàng Việt luật lệ được sao chép nguyên văn từ luật nhà Thanh. Dưới thời kỳ Pháp thuộc, với chính sách chia để trị, thực dân Pháp đã chia nước ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng điều chỉnh các quan hệ HN - GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng. Thời kỳ đầu, các án lệ ở Nam Kỳ đã áp dụng theo quan niệm người vợ có tài sản riêng và chế độ hôn sản là theo chế độ cộng đồng tài sản; nhưng sau đó các án lệ lại đổi hướng không công nhận quyền có tài sản riêng của người vợ với lập luận rằng: “nếu công nhận chế độ cộng đồng tài sản tức là đã gán cho người vợ những quyền ngang hàng với quyền của ngườ chồng, trong khi đó trong gia đình, người vợ chỉ có địa vị như địa vị của một người con gái”. Tất cả tài sản trong gia đình đều thuộc sở hữu và quản lý của người chồng. Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng tại Nam Kỳ dưới thời kỳ Pháp thuộc đã rất bất công đối với người vợ, kể cả những tài sản do người vợ tạo ra được khi hành nghề riêng trước thời kỳ hôn nhân vẫn phải coi là thuộc tài sản của người chồng. Khác với Nam Kỳ,điều 106, 107 dân luật Bắc Kỳ và điều 105 dân luật Trung Kỳ quy định: “nếu hai vợ chồng không có tư ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu tức lợi tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau…”. Mặc dù vợ và chồng có thể có tài sản chung từ trước khi kết hôn , nhưng kể từ khi kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân thì các tài sản riêng đó (bao gồm cả động sản và bất động sản) được hợp nhất thành khối tài sản chung vợ chồng. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ hôn nhân. Chỉ có những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mới là tài sản chung chính thức. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng của vợ, chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung của vợ chồng lại được tách ra để chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì bên đó được quyền lấy lại, còn đối với tài sản chung sẽ được chia đôi cho vợ và chồng. Tuy dân luật Bắc Kỳ và dân luật Trung kỳ có điểm tiến bộ hơn pháp luật Nam Kỳ trong việc quy đinh chế độ tài sản của vợ chồng nhưng nhìn chung, trong chế độ cũ, tài sản của vợ chồng thể hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng trong gia đình. Sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, nhà nước ta ban hành các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước trong đó đặc biệt chú ý tới chế độ tài sản giữa vợ và chồng: Luật hôn nhân gia đình năm 1959 (có hiệu lực từ 13/1/1960) đã quy định chế độ tài sản giữa vợ và chồng tại điều 15: “vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Quy định này thể hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo luật HN – GĐ năm 1959 dự liệu là chế độ cộng đồng toàn sản: toàn bộ tài sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; dù vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai vợ chồng được tặng cho chung hay được thừa kế chung , không phân biệt nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp, đều thuộc khối tài sản chung của cả hai vợ chồng. Luật không thừa nhận vợ chồng có tài sản riêng. Vợ chồng có quyền bình đẳng ngang nhau khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung và luôn có kỷ phần bằng nhau trong khối tài sản chung hợp nhất đó. Sau gần 30 năm thực hiện luật HN – GĐ 1959, đất nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, các quan hệ xã hội ngày càng phong phú, đa dạng, đặc biệt là về mặt kinh tế. Để đảm bảo thực sự quyền tự định đoạt của công dân, luật HN – GĐ mới đã được ban hành năm 1986 (có hiệu lực từ ngày 3/1/1987). Luật này quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các chế độ tài sản chung và các chế độ tài sản riêng. Điều đó phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội. Chế độ tài sản giữa vợ và chồng mà luật HN – GĐ 1986 quy định đã tạo ra môi trường pháp lý đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng; bảo đảm sự tự do của vợ và chồng khi tham gia các giao dịch ngoài xã hội cũng như xác định rõ trách nhiệm, khả năng thanh toán của vợ hoặc chồng và bảo vệ quyền lợi của những người khác khi tham gia giao dịch. Mặt khác, đó còn là căn cứ pháp lý để các cấp tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những vụ việc tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Điều 16 luật HN – GĐ 1986 quy định: “ đối với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”. Việc thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng là một bảo đảm pháp lý quan trọng trong cuộc sống, lao động, sinhh hoạt của từng cá nhân công dân không bị chi phối bởi một yếu tố tác động tình cảm nào. Đây là điều khác biệt căn bản trong quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng được quy định trong luật hôn nhân và gia đình năm 1986 so với luật HN – GĐ năm 1959. Kế thừa và phát triển các quy định về tài sản riêng của vợ chồng trong luật HN – GĐ năm 1986, luật HN – GĐ năm 2000 đã quy định chế độ sở hữu đối với tài sản riêng của vợ, chồng cụ thể hơn, tạo được cơ sở pháp lý thống nhất trong thực tế áp dụng. Điều 32 Luật Hôn nhân – gia đình năm 2000 quy định: 1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. 2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Như vậy, luật Hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng. Chỉ những tài sản mà vợ hoặc chồng có từ trước khi kết hôn, tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản từ khối tài sản chung của vợ chồngtrong thời kỳ hôn nhân và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó, đồ dùng, tư trang cá nhân mới được coi là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. III. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng: Cơ sở lý luận: 3.1.1 Cơ sở về quyền bình đẳng của phụ nữ Bình đẳng được coi là hòn đá tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, trong lịch sử và ngày nay, ở hầu khắp các khu vực trên thế giới vẫn tồn tại ba hình thức bất bình đẳng chủ yếu, đó là: bất bình đẳng về chủng tộc, giai cấp và giới. Xét riêng về bình đẳng giới, cựu Tổng thư kí Liên Hợp Quốc B. Ga – Li đã từng nhận định: “phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại nhưng chưa có quốc gia nào trên thế giới đối xử với phụ nữ một cách bình đẳng”. Ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ phong kiến, rồi đến thời kỳ Pháp thuộc, với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã làm cho địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội hết sức thấp kém, thuyết “tam tòng” như sợi dây trói buộc người phụ nữ, cuộc sống của họ bị phụ thuộc vào người cha, người chồng, thậm chí là con trai. Họ không có bất cứ quyền hành nào ở gia đình và xã hội. Cách mạng tháng Tám thành công đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta. Nhân dân ta từ những người nô lệ lầm than trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân cả nước đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người đã mở đầu bản tuyên ngôn bằng câu nói bất hủ trích trong bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ 1776: “tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Đây chính là cơ sở lý luận đầu tiên để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua, trong đó, điều 9 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”, các bản hiến pháp sau này của Nhà nước ta, dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946 đều quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 quy định: “phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính tri, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình” (Điều 24). Đến Hiến pháp 1980, quyền bình đẳng của phụ nữ tiếp tục được ghi nhận trong điều 63: “phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính tri, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) một lần nữa đã khẳng định quyền bình đẳng của người phụ nữ khi quy định: “công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình.Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ…” (điều 63). Trong lĩnh vực HN - GĐ, nhằm cụ thể hóa Hiến pháp, điều 19, Luật HN – GĐ năm 2000 ghi nhận: “Vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”. Nếu như trước đây, người phụ nữ không có vai trò gì trong gia đình và hoàn toàn phụ thuộc vào người cha, người chồng hay con trai thì ngày nay, người phụ nữ đã được xã hội nhìn nhận là có vai trò, địa vị bình đẳng như nam giới và được pháp luật bảo vệ. Khái niệm bình đẳng ở đây được hiểu theo hai khía cạnh. Thứ nhất, bình đẳng là sự ngang nhau về các quyền và nghĩa vụ trong gia đình. Thứ hai, quyền bình đẳng còn được thể hiện ở việc hôn nhân không làm cho vợ chồng hòa nhập về mặt tư cách pháp lý. Mỗi người với tư cách là cá thể độc lập đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi riêng, được giữ lai lịch pháp lý riêng của mình, không bị phụ thuộc hay triệt tiêu quyền và nghĩa vụ hay tên họ. Khác với quy định pháp luật thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc, nhằm thiết lập một trật tự gia đình, trong đó, người chồng giữ vị trí chủ gia đình, giữ vị trí bảo hộ đối với người vợ, hạn chế quyền tự do tham gia các giao dịch, ký kết hợp đồng của người phụ nữ khi đã kết hôn; ngày nay, để giải phóng phụ nữ khỏi những bất công này, Đảng và Nhà nước chủ trương xóa bỏ bất bình đẳng giữa vợ và chồng, thừa nhận, đề cao và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực như nhân thân, tài sản, văn hóa, chính trị…Muốn như vậy, trước hết cần phải bảo đảm quyền lợi về tài sản giữa vợ chồng trong gia đình. Như vậy, cơ sở pháp lý đầu tiên để ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng đó chính là sự ghi nhận quyền bình đẳng của người phụ nữ đối với nam giới trong gia đình và xã hội trong Hiến pháp và các văn bản luật khác. 3.1.2 Cơ sở về quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân Ở nước ta, ngay từ thời kỳ phong kiến, bên cạnh sở hữu công thì sở hữu cá nhân cũng được thừa nhận không chỉ về sản phẩm lao động của cá nhân làm ra, do thừa kế mà còn được sở hữu về tư liệu sản xuất mà chủ yếu là đất đai và công cụ lao động. Điều này ta có thể thấy rõ khi đọc trong bộ luật Hồng Đức. Chế độ phong kiến lúc đó thừa nhận chế độ ruộng đất thuộc sở hữu cá nhân và đưa ra quy định để bảo vệ như: “cấm xâm lấn ruộng đất của người khác” (Điều 357), cấm nhà quyền quý chiếm đoạt ruộng đất của lương dân (Điều 370); cấm tá điền tranh chấp ruộng đất của chủ (Điều 356); cấm bán trộm ruộng đất của người khác (Điều 382)… Ngoài ra, chủ sơ hữu còn có thể cho thuê, mướn và có thể để lại thừa kế cho con tài sản của mình. Qua đó ta thấy thời Lê, bên cạnh sở hữu công về ruộng đất còn thừa nhận sở hữu tư về ruộng đất qua đó ta thấy các nhà làm luật đưa ra nhiều điều cấm để bảo đảm quyền sở hữu của cá nhân đối với tư liệu sản xuất của họ. Đến thời nhà Nguyễn, sở hữu cá nhân vẫn tiếp tục được thừa nhận. Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu cá nhân, mọi hành vi xâm phạm đều bị trừng phạt. Tài sản của cá nhâm gồm nhà ở, ruộng đất, đồ thờ cúng, đồ gia dụng, gia súc, gia cầm, thóc lúa. Quyền sở hữu của cá nhânn được thể hiện qua GDDS, cá nhân có quyền mua bán, cầm cố, cho vay, thừa kế… Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 8/11/1946, bản Hiến pháp mới đã được thông qua thì các nguyên tắc về quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền sở hữu của công dân đã được pháp luật thừa nhận, do đó, quyền sở hữu tài sản riêng của cá nhân đã trở thành quyền hiến định. Điều 12, Hiến pháp 1946 đã quy định “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Hiến pháp 1956 một lần nữa tiếp tục ghi nhận quyền sở hữu của cá nhân, điều 14, hiến pháp 1959 quy định: “nhà nước chiếu theo pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác”. Qua đó, ta thấy được sự coi trọng của Nhà nước đối với hình thức sở hữu cá nhân và tạo mọi điều kiện để giúp đỡ, huuớng dẫn họ phát triển kinh tế. Không chỉ thế mà Nhà nước ta còn bảo vệ quyền sở hữu của công dân đối với tài sản hợp pháp của mình được quy định trong Hiến pháp (Điều 18 Hiến pháp 1959) “Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các vật dụng dùng riêng khác”. Đến hiến pháp 1992, đã xác định ba chế độ sở hữu của nền kinh tế trong đó có sở hữu cá nhân, điều 15, Hiến pháp 1992 quy định: “nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân”, do đó, ta thấy rằng, sở hữu cá nhân đã được thừa nhậ như một chế độ sở hữu riêng và từ sỏ hữu đó mà các thành phần kinh tế mới đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Điều 52, Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) ghi nhận: “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” và thừa nhận mọi cá nhân có quyền có tài sản hợp pháp (điều 23, Hiến pháp 1992). Do đó, pháp luật phải cụ thể hóa Hiến pháp và bảo đảm sở hữu riêng của công dân. Điều này được ghi nhận trong BLDS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại mục 3(từ điều 211 đến 213 chương XIII, phần thứ hai). Vợ và chồng tổn tại với tư cách là các chủ sở hữu tài sản riêng của mình một cách độc lập trong phạm vi tài sản ghi nhân tại điều 32, luật HN – GĐ như đã nêu trên. Theo luật định, sự kiện kết hôn không làm mất đi quyền sở hữu tài sản riêng của họ. Điều 212 BLDS ghi nhận, tài sản thuộc sở hữu tư nhân bao gồm: thu nhập hợp pháp; của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc sở hữu tư nhân. Đối với tài sản thuộc sở hữu tư nhân, cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh và các mục đích khác phù hợp với pháp luật và không được ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Như vậy, việc quy định vợ chồng có tài sản riêng sẽ tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng có thể sử dụng tài sản thuộc sở hữu riêng phục vụ cho nhu cầu của mình với bất kỳ mục đích nào miễn là không trái pháp luật và đạo đức xã hội mà không cần phải có sự đồng ý của người còn lại. Cơ sở thực tiễn Điểu 55, Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “lao động vừa là quyền,, vừa là nghĩa vụ của công dân”. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với tư cách là công dân, vợ, chồng trước khi kết hôn bằng sức lao động và nghề nghiệp của mình có thể tạo ra được khối lượng tài sản lớn hoặc có thể tặng, cho, thừa kế riêng những tài sản có giá trị như: xe máy, quyền sử dụng đất, nhà cửa…những tài sản này được tạo lập trước thời kỳ hôn nhân và không thể coi là tài sản chung của vợ chồng nếu không có sự đồng ý của chủ sở hữu. Trước đây, Luật HN – GĐ 1959 chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng, đó là tài sản chung hợp nhất. Điều đó là phù hợp với điều kiện về phát triển kinh tế - xã hội thời bấy giờ; đáp ứng với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, quy định như vậy đã dẫn đến một số quan hệ hôn nhân được xác lập chỉ nhằm vào tài sản, tiền bạc của nhau chứ không dựa trên cơ sở tình cảm, tình yêu tự nguyện nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Để khắc phục tình trạng này, đồng thời để theo kịp với phong trào giải phóng phụ nữ đang ngày càng phát triển, Luật HN – GĐ năm 1986 và 2000 đã quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Bên cạnh đó, việc quy định tài sản riêng sẽ giúp cho mỗi bên giải quyết tốt vấn đề tế nhị như giúp đỡ bà con, bạn bè, đùm bọc người thân những lúc khó khăn mà vẫn giữ vẹn toàn tình nghĩa vợ chồng, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc. Thực tế cho thấy, nêu không quy định vợ chồng có quyền sở hữu tài sản riêng, đôi khi vợ hoặc chồng muốn giúp đỡ gia đình, bạn bè của mình nhưng không được sự đồng ý của người còn lại, dẫn đến tình trạng vợ chồng có mâu thuẫn, xích mích với nhau. Đồng thời, việc ghi nhận tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng sẽ bảo đảm quyền tự do thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt của người chủ sở hữu tài sản khi để lại thừa kế hay tặng, cho tài sản của mình. Thứ ba, điều 57, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) quy định: “công dân có quyền tự do kinh doanh” theo quy định của pháp luật. Điều 30, luật HN – GĐ năm 2000 cũng quy định: vợ chồng có quyền đầu tư kinh doanh riêng. Trong một số trường hợp, vì công việc kinh doanh buônn bán mà vợ chồng cần phải chớp thời cơ để đạt hiệu quả cao nhất. Tuy nhiên, liên quan tới “vốn liếng” mà người vợ hoặc người chồng không đủ để dùng vvào công việc đầu tư, kinh doanh , buôn bán; khi sử dụng tài sản chung, phía người vợ hoặc người chồng kia lại không đồng ý, do đó, vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án hoặc tự thỏa thuận với nhau chia tài sản chung để lấy tài sản riêng đó sử dụng vào mục đích kinh doanh của mìn. Khi thua lỗ dẫn đến phá sản, trước hết người vợ hoặc chồng phải lấy tài sản riêng của mình để chịu trách nhiệm về tài sản. Chỉ khi nào tài sản riêng không đủ mới lấy tài sản của người đó trong khối tài sản chng để thực hiện nghĩa vụ. Như vây, quyền lợi của mỗi bên vợ chồng cũng như của những người có liên quan được bảo đảm. Với sự phát triển của xã hội hiện nay, bên cạnh những mặt tích cực cũng đang còn tồn tại những vấn đề tiêu cực, một trong số đó là tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Có nhiều gia đình, vợ hoặc chồng sa ngã vào các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, nghiện ma túy… dẫn đến phá tán tài sản. Khi tài sản riêng không đủ đáp ứng các nhu cầu của họ, họ có thể lấy cả tài sản của người kia để tiểu dùng. Quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng để nhằm bảo vệ lợi ích về tài sản của vợ hoặc chồng, tránh bị người kia xâm hại… IV. Ý nghĩa của việc ghi nhận chế độ tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, có thể thấy, Luật ghi nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng. Mặt khác, tạo điều kiện cho vợ chồng được quyền tự định đoạt tài sản riêng của mình với tư cách là chủ sở hữu, không bị lệ thuộc bởi ý chí của bên kia, cũng như sự linh hoạt trong các quan hệ gia đình và xã hội có liên quan đến vấn đề tài sản: thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng tài sản riêng, trả nợ hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng gây ra bằng tài sản riêng của vợ chồng. Hai là, bảo đảm tính thống nhất của các quy định về chế độ sở hữu của vợ chồng trong luật hôn nhân và gia đình với các quy định về sở hữu trong pháp luật dân sự; bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho riêng hoặc cho chung cả hai vợ chồng. Thứ ba, việc ghi nhận cho vợ chồng có tài sản riêng còn bảo đảm quyền tự định đoạt và các mối quan hệ linh hoạt và tế nhị trong quan hệ vợ chồng và giữa các thành viên trong gia đình. Việc ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng không phải là phá vỡ tính truyền thống của gia đình Việt Nam; cũng không phải là thiên về yếu tố tài sản mà xem nhẹ yếu tố tình cảm trong quan hệ vợ chồng; không ảnh hưởng gì đến khối taiì sản chung của gia đình, của vợ chồng. Mặt khác, nó có thể ngăn chặn một số việc kết hôn không đúng với bản chất của quan hệ vợ chồng, được xác lập mà chỉ nhằm vào tiền bạc, tài sản của nhau. Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh luật hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật khác nhằm điều chỉnh các quan hệ của đời sống kinh tế - xã hội, có liên quan tới các quan hệ tài sản của vợ chồng, việc ghi nhận quyền có tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng trong luật HN – GĐ Việt Nam góp phần bảo đảm có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCơ sở lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận chế độ tài sản của vợ chồng.doc