Tiểu luận Công tác tôn giáo của Đảng giai đoạn 1990 - 2007

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NGUỒN GỐC - TÍNH CHẤT - CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO 4

1.1. Nguồn gốc 4

1.2. Những tính chất cơ bản của tôn giáo 6

1.2.1. Tính lịch sử 6

1.2.2. Tính quần chúng 6

1.2.3. Tính chính trị 7

1.3. Chức năng xã hội của tôn giáo 8

1.3.1. Chức năng đền bù hư ảo 8

1.3.2. Chức năng thế giới quan 9

1.3.3. Chức năng điều chỉnh 9

Chương 2: CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG TRONG THỜI GIAN 1990 - 2007 11

2.1. Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo 11

2.2. Một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam 12

2.3. Những chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo giai đoạn 1990 - 2007 15

2.3.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tôn giáo và công tác tôn giáo 15

2.3.2. Tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo và mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo 23

2.3.3. Vấn đề đấu tranh phòng, chống âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực đế quốc, phản động 27

KẾT LUẬN 33

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 8031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Công tác tôn giáo của Đảng giai đoạn 1990 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngưỡng nguyên thủy (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tôtem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị ngoại bang xâm lược nên Lão giáo, Nho giáo- những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Công giáo- một tôn giáo gắn với văn minh châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo và thu hút người theo đạo. Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa ổn định, đang trong quá trình tìm đường hướng mới cho phù hợp. Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể: - Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, Trong đó tập trung đông nhất ở Hà Nôi, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên- Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ… - Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kom Tum, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Bình Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang, Cần Thơ… - Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang… - Phật giáo Hòa Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long. - Đạo Tin lành: Khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Đắk Nông, Bình Phước… và một số tỉnh phía Bắc. - Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận… Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sĩ, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ phái Tin lành. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hóa, sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó cũng là những khó khăn đặt ra trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể nói riêng. Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo. Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên dưới 10 triệu người, sống tập trung ở 3 khu vực chính là Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với 3 dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân khoảng 1 triệu người. - Công đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có 1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào Khơme. - Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100.000 người Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (Chăm Ixlam) là 25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ. Ngoài ra còn có hơn 30.000 người theo đạo Bà Chăm (Bàlamôn). Hồi giáo chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm. - Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành. - Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành. Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn người Dao theo đạo Tin lành dưới tên gọi Thìn Hùng. Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân. Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80- 85%; của đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo là 95%; của đạo Tin lành là 65%. Là người lao động, người nông dân nên tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù trong lao động, sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với tầng lớp nhân dân làm nên nhiều chiến thắng to lớn của dân tộc. Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng nước ta. Trong chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và được thực hiện qua nhiều thủ đoạn. Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng chính là cơ sở thực tiễn của Đảng và Nhà nước hoạch định chủ, chính sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô. 2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1990- 2007 2.3.1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách của tôn giáo và công tác tôn giáo Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi Đảng mới thành lập. Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội Phản đế Đồng minh (18/11/1930), Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn giáo tự do tín ngưỡng của quần chúng: "… phải lãnh đạo từng tập thể sinh hoạt hay tập đoàn nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và đảm bảo tự do tín ngưỡng cho quần chúng…"[4, tr. 231]. Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/9/1945): "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong 6 nhiệm vụ của Nhà nước non trẻ. Ngày 14/6/1955, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện". Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11/6/1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo sắc lệnh 234. Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11/11/1977, Chính phủ ban hành nghị quyết số 297-Chính phủ về "Một số chính sách tôn giáo", trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59-HĐBT là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hóa đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nhiệm vụ công dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân". Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24, Đảng đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 2/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bẩy, khóa IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003) quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật". Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no". Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: "Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B) [3, tr10]. Từ những nguyên tắc cơ bản đó, điều 68 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" )[3, tr98, 99]. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: "Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" [3, tr.159]. Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số 23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 1/7/1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo có Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Cư trú… Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo gồm 6 chương: - Chương I: Những quy định chung. Gồm 8 điều (từ điều 1 đến điều 8). - Chương II: Hoạt động tín ngưỡng của người có tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 6 điều (từ điều 9 đến điều 14). - Chương III: Tổ chức tôn giáo và hoạt động của tổ chức tôn giáo. Gồm 10 điều (từ điều 16 đến điều 25). - Chương IV: Tài sản thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 8 điều (từ điều 26 đến điều 33). - Chương V: Quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc. Gồm 4 điều (từ điều 34 đến điều 37). - Chương VI: Điều khoản thi hành. Gồm 4 điều (từ điều 38 đến điều 41). Ngày 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo công bố Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam nhằm giúp cho nhân dân trong và ngoài nước, bạn bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam cũng như chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với công tác tôn giáo. Sách Trắng có 86 trang, gồm 3 chương: - Chương I : Giới thiệu về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong đó giới thiệu vài nét về tín ngưỡng của tôn giáo Việt Nam; các tôn giáo Việt Nam. - Chương II: Đề cập Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm các phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng, tôn giáo; Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; Kết quả việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; Các tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc. - Chương III: Nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo; Giới thiệu về quan điểm của Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của tôn giáo và quan hệ quốc tế của các tôn giáo. Sách Trắng đã khẳng định "Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung". Sách Trắng cũng nhấn mạnh: "Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, vì vậy Nhà nước Việt Nam có những chính sách phục vụ cho những nhu cầu đó". Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn gáo ở Việt Nam đã quy định rõ ràng, cụ thể hơn nhiều mặt trong vấn đề tôn giáo của Việt Nam. Nó một lần nữa khẳng định sự đúng đắn và bổ sung cho chính sách tôn giáo của Đảng được thông qua trong Hiến pháp 1992 và Nghị định số 26/1999/NĐ-CP. Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Sách Trắng về Tôn giáo và Chính sách tôn gáo ở Việt Nam ra đời là một minh chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2/8/1955 thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo". Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời kỳ: - Thời kỳ 1955- 1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. - Thời kỳ 1975- 1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11/11/1977 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc. - Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo. Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như: Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16/10/1990 về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21/3/1991 và sau này là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003 về Công tác tô giáo. Để thể chế hóa tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành- một số ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27/5/2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2/8 hàng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước. Trong suốt thời gian tăng cường bổ sung, hoàn thiện những chính sách về tôn giáo, bên cạnh đó Đảng và Nhà nước còn quan tâm đến vấn đề đào tạo cán bộ cho công tác tôn giáo. Mới đây, ngày 8/6/2007, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định 83/2007/QĐ-TTg phê duyệt "Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo" giai đoạn 2006- 2010. Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn 2006- 2010 có mục tiêu trang bị đầy đủ kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, từng bước hoàn thiện, tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức theo từng chức danh của cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội và các trường chính trị các cấp về hoạt động tôn giáo. 2.3.2. Tăng cường đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào các tôn giáo và mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà còn được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày. Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ; Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức việc; Phật giáo Hòa Hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc. Phật giáo có 3 học viện Phật giáo với trên 1000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4 trường cao đẳng Phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh 2 khóa với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới. Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam. Cùng với việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và tạo điều kiện cho mọi người có thể tham gia tôn giáo cũng như bảo đảm cho sự phát triển của mỗi tôn giáo, Đảng và Nhà nước còn tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào các tôn giáo. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng như Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng hàng đCut của công tác tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế- xã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả nước về chính sách hỗ trợ đất và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số; về phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông các đồng bào tôn giáo khó khăn, các xã, bản nghèo,… Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn lực bảo đảm thực hiên các chương trình, mục tiêu quốc gia như: Chương trình xóa đói giảm nghèo, Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục, Văn hóa thông tin… Các chương trình này được chú trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn lực ở các xã, thôn, bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng, tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói chu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTon giao1.doc
  • docTon giao - bia1.doc
  • docTon giao - muc luc1.doc
Tài liệu liên quan