Tiểu luận Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

NỘI DUNG

I. Khủng hoảng Nga

I.1 Diễn biến của cuộc khủng hoảng

I.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng

I.2.1. Nguyên nhân chính trị

I.2.2. Nguyên nhân kinh tế

1. Tình trạng đình đốn sản xuất, mà nguyên nhân chính là khủng hoảng thanh toán, nợ và chiếm dụng vốn lẫn nhau

2. Báo động về ngân sách

3. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới

3.1. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới nói chung

3.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997

I.3 Tác động của cuộc khủng hoảng

1. Tác động tới nền kinh tế Nga

2. Tác động tới các nước khác.

I.4. Ứng phó của Nga trước cuộc khủng hoảng

II. Bài học cho Việt Nam

II.1. Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Nga

II.2 Một số biện pháp chung đối phó với khủng hoảng

II.3 Một số biện pháp đối phó với khủng hoảng cho Việt Nam

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3711 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Cuộc khủng hoảng Nga năm 1998, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến 14 tỷ rúp tiền bán khí đốt trong khi Gazprom lại nợ nhà nước đến 15 tỷ tiền thuế (vào thời điểm trước điều chỉnh tỷ giá khi mà một USD còn đổi được 6,3 rúp). Điều này cho thấy cả nhà nước lẫn các công ty đều là những con nợ khó đòi với nhau, và hậu quả là ngân quỹ nhà nước trống rỗng (nguồn: Le Nouvel Observateur số1763, 20.8.1998). Đây là một hậu quả của chủ trương hy sinh tất cả để kìm chế lạm phát và giữ đồng rúp ổn định bằng mọi giá đã thành công cho đến khi cuộc khủng hoảng bùng nổ tháng 8 năm 1998. Tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi nhà nước Nga dứt khoát không in thêm tiền nhằm tránh lạm phát nên  để bù đắp những thâm hụt trong ngân sách đã phải vay nợ bằng đòn bẩy lãi suất thật kích thích: 150% cho công trái, từ 15 đến 20% cho các trái phiếu châu Âu (Euro - bonds) qua sự  bảo lãnh hàng năm của IMF và G7. Hậu quả là phân nửa ngân sách liên bang được dành cho việc trả nợ, tối thiểu là 1 tỷ USD mỗi tuần. Nay khi tổng số nợ nước ngoài lên  đến xấp xỉ 100 tỷ USD, và các nguồn thu ngoại tệ giảm thiểu, nhất là từ dầu hỏa, không ai còn muốn cho Nga vay nợ nữa. Một trong những "vố nợ" kinh khủng nhất thực hiện trong khoảng 4 tháng cầm quyền của ê kíp Kirienko là việc các ngân hàng tư nhân, do hám thu lợi từ lãi suất công trái, đã vay nóng nợ nước ngoài bằng USD để mua công trái nhà nước bằng đồng rúp. Báo Le Nouvel Observateur đã đưa ra những con số kinh khủng sau: 7 ngân hàng hàng đầu ở Nga hiện phải thanh toán từ nay đến cuối năm 54 tỷ USD nợ tích lũy từ nhiều năm qua trong khi vốn tích lũy gộp lại tất cả mới được không  đầy 1,5 tỷ USD (tính theo tỷ giá trước 17.8.1998 là 6,3 rúp/1USD). Trong tình hình đồng rúp tuột giá 30% từ ngày 17.8 đến cuối tháng 8, số nợ này sẽ tăng lên tương đương 16 tỷ USD. Thế nhưng, với tỷ giá mới nhất ghi nhận ngày 6.9.1998, 1 USD đã lên đến 19,4 rúp (nguồn: Yahoo - Finance 6.9.1998), thì số nợ này coi như đã tăng 300% (tính bằng đồng rúp). Thêm vào đó, bất chấp những nỗ lực của chính phủ, tình trạng nợ lương công nhân và các khoản nợ  của các doanh nghiệp với nhau cũng ngày càng trở nên trầm trọng. Ở nhiều nơi, công nhân đã đình công, sản xuất ngừng trệ. Tình hình mỗi lúc một trở  nên căng thẳng. 2. Báo động về ngân sách Như  đã nói ở trên, ngân sách nhà nước của Nga lúc này trong tình trạng trống rỗng do nhà nước vay nợ quá nhiều và tình trạng đình đốn sản xuất của các công ty khiến cho việc thu thuế trở nên khó khăn hơn. Tiền thu thuế không đủ để bù đắp số tiền trả lãi cho các khoản vay của chính phủ cả ở trong nước lẫn nước ngoài. Điều này đã khiến cho phúc lợi xã hội như việc trả lương hưu và giao thông công cộng bị giảm sút.    3. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới 3.1. Ảnh hưởng từ tình hình thế giới nói chung Kinh tế thế giới khủng hoảng đã gây ra tình trạng phát triển đình đốn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới nhất là các nước đang phát triển. Nga lại là nước phụ thuộc nhiều vào việc xuất khẩu nguyên liệu thô trong đó, xăng, khí đốt, kim loại, và gỗ chiếm tới 80% xuất khẩu Nga, khiến cho nước này càng dễ bị tác động bởi những thay đổi thăng trầm của giá cả thế giới.Nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ giảm đã tác động mạnh mẽ đến nguồn cung ngoại tệ của Nga, đặc biệt khi mức giá dầu đã rớt xuống 11 USD/ thùng vào cuối năm 1998. Trong khi đó, Nga lại đang phải chống chọi với tình trạng khan hiếm ngoại tệ do tác động của lam phát tăng cao dẫn đến tâm lí trốn chạy đồng rúp của người dân.Tháng 8/1998, Chính phủ đã phải trả 4 tỷ USD để ổn định các cuộc đình công của công nhân mỏ. Lạm phát năm 1998 lên tới 84%. 3.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính trên diện rộng được bắt đầu từ tháng 7/1997 tại Thái Lan và nhanh chóng ảnh hưởng tới các nền kinh tế khác trong khu vực. Cuộc khủng hoảng tuy được nhìn nhận ở khu vực Đông Á, và đây cũng là khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ cuộc khủng hoảng này, tuy nhiên như ở hai cuộc khủng hoảng lớn trước, nó tiếp tục phát triển thành một "cơn bão" tiền tệ tầm cỡ quốc tế và ảnh hưỡng đến nhiều quốc gia khác trên thế giới, nhiều quốc gia "xa xôi" nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này như Mỹ, Nga, Brazil... đặc biệt là Nga. Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 cũng gây nên tâm lí lo ngại trong các nhà đầu tư quốc tế, họ nhanh chóng thoái vốn khỏi thị trường chứng khoán Nga cũng như các nước đang trong suy thoái để chuyển sang các kênh đầu tư an toàn hơn như vàng và USD. Hơn nữa trước thời điểm tấng 8.1997 Nga vẫn là một trong những thị trường chứng khoán thành công nhất trên thế giới với 44 tỉ USD huy động được từ các nhà đầu tư quốc tế. Vì vậy, khi xảy ra hiện tượng thoái vốn ồ ạt thì toàn bộ hệ thống tài chính của Nga nhanh chóng sụp đổ. Trong vòng 6 tháng, TTCK mất đi 70% giá trị vốn (so với đại khủng hoảng ở Mỹ làm mất 80%). Ngân hàng Trung ương Nga chi 3,5-3,8 tỷ USD trong tuần cuối cùng cùng của tháng 7 và tuần đầu tháng 8 với nỗ lực làm tăng giá đồng rúp với hy vọng cứu các ngân hàng thoát khỏi phá sản hoàn toàn, Chính phủ đã làm giảm giá tiền tệ và tạm ngưng chi trả các khoản nợ nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng lớn như Inkombank, Oneximbank và Tokobank vẫn bị đóng cửa. Khủng hoảng tài chính Đông Á cũng làm cho mức lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế tăng nhanh. Tâm lí hoảng loạn của các bên cho vay đã dẫn đến việc rút vốn lớn từ các quốc gia khủng hoảng, gây ra một cuộc khủng hoảng tín dụng và phá sản trầm trọng hơn bao giờ hết.Tại Nga In addition, as foreign investors attempted to withdraw their money, the exchange market was flooded with the currencies of the crisis countries, putting depreciative pressure on their exchange rates.,trong khi các nhà đầu tư nước ngoài cố gắng để rút tiền của mình thì thị trường ngoại hối đã tràn ngập đồng rúp càng làm tăng áp lực lên tỷ giá hối đoái đang chao đảo. To prevent currency values collapsing, these countries' governments raised domestic interest rates to exceedingly high levels (to help diminish flight of capital by making lending more attractive to investors) and to intervene in the exchange market, buying up any excess domestic currency at the fixed exchange rate with foreign reserves . Để ngăn chặn giá trị tiền tệ bị sụp đổ, chính phủ Nga cũng giống như nhiều nước khác đã tăng lãi suất trong nước lên mức trần nhằm hạn chế thoái vốn bằng cách trả lợi tức hấp dẫn hơn cho nhà đầu tư và can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng việc mua hết lượng nội tệ dư thừa tại cố định tỷ giá với dự trữ ngoại hối . Neither of these policy responses could be sustained for long. Kết quả là lãi suất cao đã gây thiệt hại lớn cho một nền kinh tế lành mạnh vốn đang lung lay bởi chính trị của Nga. Cuối cùng, When it became clear that the tide of capital fleeing these countries was not to be stopped, the authorities ceased defending their fixed exchange rates and allowed their currencies to float . khi Chính phủ hiểu rằng các triều vốn chạy trốn các quốc gia này không được dừng lại, họ đã ngừng bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định và cho phép thả nổi đồng rúp. Hậu quả kéo dài vô cùng nặng nề. Hàng loạt tài sản ở Nga bốc hơi chỉ trong 1 đêm.The resulting depreciated value of those currencies meant that foreign currency-denominated liabilities grew substantially in domestic currency terms, causing more bankruptcies and further deepening the crisis.Hậu qua I.3 Tác động của cuộc khủng hoảng 1. Tác động tới nền kinh tế Nga Khủng hoảng tài chính Nga đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình phát triển vốn đã không khả quan của Nga trong suốt một thời gian dài từ những năm đầu thập kỷ 90. Mặc dù nền kinh tế của đất nước này đã cho thấy một sự khởi sắc trong nửa đầu những năm 97 nhưng những yếu kém nội tại trong nền kinh tế kết hợp với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 97 đã khiến cho Nga rơi vào tình trạng không thể chống đỡ được. Sức lan tỏa cũng như càn quét của nó đã khiến cho hình ảnh một nước Nga vĩ đại trong lịch sử phút chốc bị lu mờ vì những lỗ hổng của yếu tố kinh tế. Trước hết sự giảm giá của đồng nội tệ đã làm cho hàng hóa trên thị trường tăng giá chóng mặt. Đầu tiên là những mặt hàng nhập khẩu. Lượng hàng hóa nhập khẩu của Nga phụ thuộc khá nhiều từ bên ngoài nên khi đồng nội tệ giảm giá làm cho hàng hóa nhập khẩu đắt hơn tương đối so với hàng hóa trong nước. Thế nhưng hàng hóa trong nước lại vô cùng khan hiếm đẩy giá cả tăng lên chóng mặt. Giá nguyên liệu sản xuất đầu vào cũng tăng lên làm cho hàng hóa sản xuất ra tốn nhiều chi phí hơn và khó bán hơn. Đồng thời khi mà giá tăng thì cung lại giảm, hàng bán ra không tiêu thụ được. Trong tình trạng như vậy, hàng loạt công ty tuyên bố ngừng sản xuất, phá sản. Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao là nguyên nhân phát sinh tên nạn xã hội. Nạn trộm cắp, cướp giật diễn ra tràn lan. Cũng tương tự như vậy nhiều ngân hàng như Inkombank, Oneximbank và Tokobank phải tuyên bố đóng cửa vì không còn đủ khả năng chi trả cho khách hàng. Ngân hàng Trung ương Nga chi 3,5-3,8 tỷ USD trong tuần cuối cùng cùng của tháng 7 và tuần đầu tháng 8 với nỗ lực làm tăng giá đồng rúp hy vọng cứu các ngân hàng thoát khỏi phá sản hoàn toàn. Cũng trong thời kỳ này thị trường chứng khoán tại Nga đã giảm hơn 80% giá trị thực của nó. Một khi thị trường chứng khoán rớt điểm trong trạng thái không kiềm chế được tức là sẽ không còn đòn bẩy để đẩy nền kinh tế lên và mỗi ngày thị trường lại bốc hơi một khối lượng tiền tệ lớn. Tình hình càng trở nên xấu đi khi hiện tượng giá đồng nội tệ là làm cho uy tín trả nợ nước ngoài của Nga suy yếu rõ rệt. Việc Chính phủ phá giá đồng rúp dưới danh nghĩa "mở rộng biên độ tỷ giá đồng rúp" ngày 17/8/1998, theo đó tỷ giá thay đổi từ 6,3 lên 9,5 rúp/ 1USD, đồng thời tuyên bố hoãn trả nợ nước ngoài trong thời hạn 90 ngày đã tạo ra những phản ứng tiêu cực. Đây có thể nói là "giọt nước cuối cùng" làm "tràn cốc nước" chống đối của giới tài phiệt, phe cánh tả đối lập, làm giới đầu tư nước ngoài mất lòng tin hoàn toàn. Bởi vì trong khi các đại gia trong làng chủ nợ của Nga như G7 đang chỉ nhăm nhe muốn đòi số nợ mà Nga đã vay và các nhà đầu tư cũng luôn luôn trong tư thế rút vốn tại Nga. Do đó mà tuyên bố hoãn trả nợ nước ngoài với mục đích đi tìm nguồn vốn mới đập vào số nợ cũ đã làm cho chủ nợ và các nhà đầu tư mất niềm tin hoàn toàn vào khả năng phục hồi của nền kinh tế. Và thực tế, quyết định này của Nhà nước đã làm cho tình hình không thể kiểm soát nổi : dân chúng nhốn nháo, các nhà băng hầu như đóng cửa không giao dịch, các chủ nợ nước ngoài phong tỏa những khoản của Nga ở nước ngoài. Thực trạng kinh tế Nga đã đặt vào tình thế "Ngàn cân treo sợi tóc". 2. Tác động tới các nước khác. Việc đồng rúp tuột giá đã kéo theo một tác động dây chuyền cực lớn. Các nước thuộc Liên Xô cũ cũng rung động theo, tiền tệ của Ukraine, của Biélorussie, Lettonie...cũng bị thả nổi theo. Thật dễ hiểu khi mà có tới 40% hàng hóa xuất khẩu của Ukraine là vào thị trường Nga, Ukraine giữ tỷ giá cố định đồng tiền nước mình, trong khi đồng rúp tuột giá, làm cho ngành sản xuất xuất khẩu rơi vào khó khăn nghiêm trọng. Khi đó thì hàng hóa của Ucraina vào Nga tăng giá khiến cho sức cạnh tranh của nó yếu đi. Thế nhưng không chỉ có các nước thuộc Liên Xô cũ hay các nước G7 mới rung động, mà cả châu Á cũng đang thấp thỏm theo dõi phản ứng dây chuyền này. Đồng rúp tuột giá đến chừng mực nào sẽ khiến đồng nhân dân tệ phải bị phá giá khi mà Trung Quốc là một nước xuất khẩu khá nhiều vào thị trường Nga và đang chịu áp lực của các đồng tiền Đông Á tuột giá từ 1 năm qua? Trong tình huống này, tức đồng nhân dân tệ phá giá, các tiền tệ Đông Á sẽ rơi vào một đợt phá giá "không thắng" lần thứ nhì và điều này nhất định sẽ không để châu Âu và Bắc Mỹ chịu ngồi yên mà sẽ lại tiếp tục thu hồi vốn của mình ở thị trường Châu á và tình hình cả khu vực lại có thể diễn biến tồi tệ giống như những gì đã xẩy ra trong những năm 1997. Nhìn chung cuộc khủng hoảng Nga 1998 mà người ta quen gọi đó với cái tên cuộc khủng hoảng đồng rúp đã có những tác động vô cùng tiêu cực cho nền kinh tế của Nga nói chung cũng như của Châu Á và toàn cầu nói chung. Sự càn quét của nó diễn ra trên mọi phương diện của nền kinh tế ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân cũng như nền sản xuất. Nó thể hiện sự quản lý yếu kém của Nhà nước Nga trong cả một quãng đường dài dẫn dắt nền kinh tế. Sự yếu kém này đòi hỏi Nga cần có một biện pháp cải tổ nền kinh tế một cách nghiêm túc nhất mới có thể giúp Nga vượt qua cơn bĩ thái này. I.4. Ứng phó của Nga trước cuộc khủng hoảng Tháng 4/1996, chính quyền Nga Nga bắt đầu đàm phán và lên lại lịch trình các khoản phải trả nước ngoài được để lại từ chế độ Xô Viết. Đàm phán bắt đầu trả nợ trong nước là bước chính trong việc khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, năm 1997, có vẻ như Nga đang chuyển sang thời kì ổn định kinh tế. Cán cân thương mại thặng dư Quan hệ với phương tây có triển vọng : Ngân hàng thế giới chuẩn bị cung cấp sự trợ giúp mở rộng từ 2 đến 3 tỷ mỗi năm và IMF tiếp tục gặp chính quyền Nga và cung cấp viện trơ. Lạm phát đã giảm từ 131% năm 1995 xuống 22% năm 1996 và 11% năm 1997 Sản lượng đã phục hồi nhẹ Tỷ giá dao động là 5 đến 6 rup một USD Vào tháng 9 năm 1997, Nga được gia nhập các nước tín dụng châu Âu sau khi tái kế hoạch lại sự trả nợ trên 60 tỷ đô la thời Xô Viết cũ cho các chính phủ khác. Một thỏa ước khác cho việc trả khoản nợ 33 tỷ đô trong 23 năm cũng được kí một tháng sau với London Club. Các nhà phân tích dự báo rằng mức tín nhiệm của Nga sẽ tăng, cho phép nước này được đi vay với ít chi phí hơn. Hạn mức mua chứng khoán chính phủ cho các nhà đầu tư không cư trú cũng bãi bỏ, thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài vào Nga. Trước cuối năm 1997, có đến 30% của GKO( trái phiếu chính phủ ngắn hạn) nằm trong tay các nhà đầu tư không cư trú. Viễn cảnh nền kinh tế khá lạc quan như báo cáo tăng trưởng kinh tế của Nga cuối năm 1997 lên đến 0.8% Mặc dầu viễn cảnh khá lạc quan nhưng vấn đề vẫn còn tồn tại: Tiền công thực giảm, đầu tư nước ngoài trên đầu người giảm và nguồn thu từ thuế của đất nước có nhiều điểm bất cập dẫn đến thấp và giảm xuống nhanh. Xác nhận của Paris Club dựa trên những cơ sở không tin tưởng, tuy nhiên sự cải thiện trong hạn mức tín nhiệm của Nga đã làm các ngân hàng Nga vay mượn nhiều hơn từ thị trường nước ngoài. Tăng trưởng nợ nước ngoài lên đến 7% năm 1994 lên 17% năm 1997. Trong thời gian đó, các khoản nợ của Nga vẫn gia tăng trong những năm tiếp theo khi mà nguồn tín dụng sớm từ IMF đến. Các nhà hoạch định chính sách đã phải đối mặt với quyết định là phải giảm nguồn tín dụng nội địa và tăng trong nguồn thu thuế bởi các khoản phải trả chịu lãi chiếm tỷ trọng lớn trong ngân sách quốc gia. Vào tháng 10 năm 1997, Nga tính phải tăng trưởng kinh tế 2% vào năm 1998 để coi như bù lại tăng trong nợ. Rất không may, những sự kiên này bắt đầu để lộ ra rằng nền kinh tế của Nga thay vì tăng trưởng, GDP thực đã giảm đến 4.9%. Khủng hoảng tài chính châu Á nhanh chóng ảnh hưởng đến Nga. Vào tháng 11/1997, đồng rup bị tấn công nặng nề. Ngân hàng trung ương Nga( CBR) đã phải trợ giá đồng tiền và bị mất đến 6 tỷ đô trong nguồn dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, các nhà đầu tư vào thời điểm đó nắm giữ trái phiếu chính phủ Nga đã kí hợp đồng kì hạn với Ngân hàng trung ương, giúp họ bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Thiệt hại ròng của các Ngân hàng Nga lên tớ 6 tỷ USD trong đầu năm 1998. Một điều mới thách thức Nga: tháng 12/1997 giá dầu và kim loại không phải sắt, chiếm tới 2/3 lợi nhuận thu bằng tiền tệ của Nga, bắt đầu giảm. Với quá nhiều tín hiệu không chắc chắn từ nền kinh tế Nga, các nhà đầu tư chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro vỡ nợ của Nga. Để thúc đẩy phát triển thị trường đầu tư giữ mức cũ, tháng 2 năm 1998, chính phủ Nga nộp một bản thuế mới tới Duma. Mã thuế mới được chấp nhận vào năm 1998. Tuy vậy, phần chủ chốt mà dự định làm tăng nguồn thu của Nga vẫn bị lờ đi. Chính phủ Nga tìm kiếm quỹ từ IMF nhưng không đạt được thỏa thuận nào. Vào cuối tháng 3, các tổ chức chính trị và kinh tế bắt đầu trở nên lục đục và vào 23/3, tổng thống Nga Yeltsin sa thải toàn bộ chính phủ, bao gồm cả thủ tướng ViKtor Chernomyrdin. Để củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư, Yeltsin chỉ định ông Kiriyenko, 35 tuổi, một nhà sáng lập ngân hàng và công ty chuyên kinh doanh dầu mỏ, người mà mới chỉ ở trong chính phủ ít hơn 1 năm lên thay thủ tướng. Trong mối lo sợ tăng lãi suất ở Mỹ và Đức làm cho nhiều nhà đầu tư cẩn trọng, tình hình cẳng thẳng vẫn gia tăng trong chính phủ Nga. Duma và Ngân hàng Trung ương vẫn mâu thuẫn. Bị thôi thúc bởi mối đe dọa tan rã Nghị viện từ Yeltsin, Duma chấp nhận vị trí của Kiriyenko vào 24 tháng 4 sau 1 tháng chao đảo. Vào đầu tháng 5, chủ tịch CBR Sergei Dubinin cảnh báo thủ tướng chính phủ về khủng hoảng nợ trong vòng 3 năm tới. Không may là các nhà báo cáo đã nghe ngóng được. Do khủng hoảng châu Á làm tăng cao sự nhạy cảm của các nhà đầu tư tới sự ổn định tiền tệ. Bản báo cáo của Dubinin về chính sách ngân hàng đã bị hiểu là Ngân hàng chuẩn bị phá giá đồng rup . Trong một buổi tiếp xúc với công chúng, bị hiểu nhầm, Kiriyenko phát biểu trong một buổi phỏng vấn rằng doanh thu thuế là 26%, dưới mục tiêu và nói rằng Chính phủ bây giờ đang “quá nghèo”. Trên thực tế, chính phủ đang dự định cắt giảm chi tiêu và tăng tốc doanh thu. Tuy nhiên những kế hoạch này lại không được thông báo rõ ràng tới quần chúng và kết cục, thay vào đó, người ta bắt đầu kì vọng sự phá giá đồng rup Cùng vào thời gian đó, IMF rời Nga, không thể đạt được thỏa ước với các nhà hoạch định chính sách với kế hoạch 1998 nghiêm khắc. Chuyện này nhanh chóng truyền đi, các nhà đầu tư lớn bắt đầu bán trái phiếu chính phủ của họ và chứng khoán Nga, quan tâm rằng mối quan hệ giữa Ngà và Hoa kì đang căng thẳng. Do các nhà gửi tiền và đầu tư trở nên ngày càng cẩn trọng với rủi ro, những ngân hàng thương mại này và các hãng lại có ít tiền mặt hơn thế là những trái phiếu này trôi nổi. Chính phủ liên bang đi tiên phong trong thu thuế bằng tiền mặt đã làm giảm tính lỏng của các ngân hàng và các hãng. Cũng như vậy , vào năm 1997 Nga đã tạo ra hệ thống kho bạc kiểu Hoa Kì với cách chi nhánh, tiết kiệm tiền và làm giảm tham nhũng cũng như giảm lượng tiền mặt di chuyển vào Ngân hàng. Ngân hàng trước đây đã từng sử dụng những quỹ này để mua trái phiếu. Cũng như vậy, tiết kiệm đồng rup trong cư dân đã chỉ tăng có 1.3 tỷ vào năm 1998, so với tăng 29.8 tỷ năm 1997. Ngân hàng Trung ương phản ứng bằng cách tăng lãi suất cho vay từ 30 lên 50% và trong hai ngày sử dụng đến 1 tỷ USD trong quỹ dự trữ ít ỏi để phòng vệ đồng rup. Tuy nhiên vào ngày 27/5, nhu cầu trái phiếu giảm mạnh quá nhiều đến mức lợi tức là trên 50% và chính phủ thất bại trong việc bán đủ số trái phiếu trong cuộc đấu giá hàng tuần để tài trợ cho các khoản nợ đến hạn Trong khi đó giá dầu tiếp tục giảm xuống 11 đô la một thùng. Trong giai đoạn này, ngân hàng Trung ương đã tăng lãi suất cho vay một lần nữa, lần này lên tới 150%. Chủ tịch ngân hàng, ông Sergei Dubinin đã phản ứng bằng cách tuyên bố: khi bạn nghe nói về sự giảm giá, hãy nhổ vào mắt kẻ đang nói vấn đề đó. Chính phủ thiết lập và quảng bá một kế hoạch chống khủng hoảng, yêu cầu trợ giúp từ phương Tây và bắt đầu tiến trình giải thể ba công ty với số nợ lớn từ hoàn thuế. Kiriyenko gặp các nhà đầu tư nước ngoài để củng cố lòng tin cho họ. Yeltsin thì xuất hiện hàng tối trên tivi Nga, kêu gọi các nhà tài chính nổi bật cách nước đến môt cuộc họp ở Kremli nơi ông thúc giục họ đầu tư và Nga. Đến tháng 6, Ngân hàng Trung ương lại tiếp tục bảo hộ đồng rup, tiêu tốn mất 5 tỷ đô dự trữ. Nhưng dù tất cả các nỗ lực của chính phủ, người ta ngày càng biết nhiều đến khoản nợ 2.5 đến 3 tỷ vay từ các nhà đầu tư nước ngoài tới công ty và các Ngân hàng Nga mà đến hạn trả nợ vào tháng 9. Vào tháng 7 IMF chấp nhận trợ giúp bổ sung 11.2 tỷ đô, trong đó 4.8 tỷ đô được giải ngân ngay lập tức. Tuy nhiên, sau khi tính thanh khoản sụt giảm nặng nề, IMF đã không còn tin tưởng Nga nhiều. Duma, cũng trong nỗ lực bảo vệ chế độ đưa ra chương trình chống khủng hoảng. Chính phủ hi vọng rằng kế hoạch chống khủng hoảng sẽ mang thêm 71 tỷ rup trong doanh thu nhưng phần mà Duma thực sự làm được chỉ tăng doanh thu lên khoảng 3 tỷ rup mà thôi. Không ăn thua gì, các nhà làm luật cho rằng, cuộc triệu tập của Duma, thậm chí còn làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư xuống sâu hơn. Vỡ nợ và phá giá: Vào 13/8/1998, cổ phiếu Nga, trái phiếu, và thị trường tiền tệ sụp đổ như kết quả của lo sợ của các nhà đầu tư rằng chính phủ sẽ phá giá đồng rup hay là vỡ nợ trong nước. Lợi tức hàng năm trên những trái phiếu đồng rup bây giờ là hơn 200%. Thị trường cổ phiếu đóng cửa sau 35 phút khi giá rơi tự do. Khi thị trường đóng cửa, nó đã giảm đến 65% với chỉ một lượng nhỏ cổ phiếu được giao dịch. Từ tháng 1 đến tháng 8, thị trường cổ phiếu đã mất 75% giá trị của nó, chỉ riêng tháng 5 là 39%. Cơ quan chính phủ Nga đã còn quá ít lựa chọn. Và thế là vào ngày 17/8, chính phủ thả nổi tỷ giá, phá giá đồng rup, không thể trả nợ quốc gia, tạm dừng thanh toán các khoản nợ bằng đồng rup( chủ yếu là KGOs) và tuyên bố 90 ngày hoãn trả nợ đối với các khoản thanh toán cho Ngân hàng thương mại tới các nhà tín dụng nước ngoài. Tóm tắt lại động thái của chính quyền Nga trong khủng hoảng chỉ có những nét nổi bật sau đây: Vào giai đoạn đầu, Nga ngày càng mở rộng khoảng cách tỷ giá đồng rup so với thị trường thực Ngân hàng trung ương cố trợ giá và phòng thủ cho đồng rup nhưng cuối cùng vẫn phải thả nổi đồng tiền, nghĩa là chấp nhận phá giá nó Quỹ dự trữ Ngân hàng trung ương đã giảm nặng nề. Lạm phát hàng tháng trung bình là : 45% 90 ngày hoãn trả nợ nước ngoài để cứu hệ thống ngân hàng. II. Bài học cho Việt Nam II.1. Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng Nga Trong thời đại toàn cầu hóa của chúng ta ngày nay, hệ thống tài chính, đầu tư, chứng khoán... của các nước liên kết với nhau khá chặt chẽ và sâu rộng. Một tập đoàn đa quốc gia bị sụp đổ tại một chi nhánh thì lập tức toàn bộ tập đoàn bị ảnh hưởng. Đó chính là lý do cấp thiết để các quốc gia cùng nhau hợp tác chống khủng hoảng. Nhìn lại, cuộc khủng hoảng Nga năm 1998 đã gây ra không ít những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế Nga nói riêng và toàn đất nước Nga cũng như thế giới nói chung. Vậy bài học được rút ra từ cuộc khủng hoảng này là gì ? Thứ nhất, là bài học về sự mất cân bằng nền kinh tế vĩ mô trong một thời gian dài.Đây cũng là bài học cho rất nhiều nước nhất là khi cuộc khủng hoảng ở Hy Lạp vừa diễn ra do tình trạng nợ chính phủ leo thang. Thứ hai là bài học về kích thước của gói cứu trợ trong thời kì khủng hoảng. Với Nga vào thời kì đó, IMF cho rằng chính phủ không thể bình ổn thị trường và các nhà hoạch định chính sách cũng không có đủ thời gian để khôi phục lại những vấn đề liên quan đến luật ngân sách nhà nước. Trong giữa tháng Bảy, IMF đã quyết định cung cấp 20 tỷ USD tín dụng cho Nga, với đợt đầu tiên là $ 4800000000 tức là khoảng 6,7% GDP của Nga. Với gói hỗ trợ không đáng kể này, không có gì ngạc nhiên khi IMF thất bại trong việc xoa dịu thị trường Nga cũng như làm chậm lại quá trình của cuộc khủng hoảng. Kết quả là, Nga chỉ có thể giải quyết vấn đề của mình bằng cách gia hạn nợ và phá vỡ biên độ tỉ giá trao đổi. Thứ ba là bài học về vấn đề thay đổi nội các của chính phủ. Chỉ trong vòng một năm, Nga đã có hai lần thay đổi nội các làm ảnh hưởng sâu sắc đến chính trường và thương trường Nga đồng thời làm mất lòng tin vào người dân, tất yếu là tình hình sẽ tồi tệ hơn. Vì vậy bài học ở đây là chính trị phải ổn định thì đất nước mới bình ổn, nhân dân mới an tâm và đất nước mới phát triển được. II.2 Các biện pháp chung đối phó với khủng hoảng 1. Thực hiện bình ổn nền kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ phù hợp làm yên lòng nhân dân và các nhà đầu tư trong tình hình nền kinh tế còn nhiều bất ổn. Chẳng hạn áp dụng chính sách thắt chặt chế độ tiền tệ khi tình trạng nền kinh tế đang phát triển quá nóng, lạm phát gia tăng. Hay trong lúc khó khăn, tiết tiệm chi tiêu được coi là quốc sách hàng đầu… 2. Công bố các gói kích thích kinh tế phát triển: Đây là một phương thức không thể thiếu trong việc chống lại suy thoái kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ và những hệ lụy do khủng hoảng hệ thống tài chính gây ra, đã ảnh hưởng trực tiếp tới mọi doanh nghiệp, người dân và đặc biệt là những người nghèo. Các phương thức tiếp cận nguồn vốn để duy trì hoạt động kinh doanh, sinh hoạt thường nhật của người dân với những mặt hàng thiết yếu ngày càng trở nên khó khăn hơn. Đây là lúc chính phủ cùng quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB) hỗ trợ cho vay một lượng tiền lớn để phát triển đầu tư công, nâng cao đời sống an sinh xã hội của người dân đặc biệt là những người nghèo hoặc thất nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp trước đây làm ăn hiệu quả, có thang điểm tín dụng an toàn và những doanh nghiệp có ảnh hướng lớn đến nền kinh tế-xã hội được vay vốn để vượt qua khó khăn. Điều khác biệt của việc bơm tiền sau khủng hoảng nhằm ngăn chặn đà suy thoái đó là tập trung tiền để kích thích xã hội làm ra của cải thực sự nhằm nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của toàn dân thay vì bơm tiền để đầu cơ vào những giá trị ảo như đất đai, chứng khoán như trước đây. 3. Chủ động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieuluanfix_2083.doc
Tài liệu liên quan