Tiểu luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp

Cho đến nay, đã có 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó 69, 1% vốn đăng kí đến từ các nhà đầu tư Châu Á, 16,2% từ EU và 11,8% từ các nhà đầu tư Mĩ.

Các nhà đầu tư sớm nhất đến thị trường Việt Nam là các nhà đầu tư từ Úc và EU bao gồm cả Unilever, British Petroleum và Shell. Các công ty Châu Á tham gia vào thị trường Việt Nam chậm hơn khi Việt Nam trở thành một địa điểm đầu tư tự nhiên đặc biệt là đối với các nhà đầu tư mở rộng sản xuất đối với dây chuyền may mặc. Các công ty Mĩ tham gia thị trường Việt Nam muộn nhất do bị hạn chế bởi lệnh cấm của Mĩ cho đến năm 1994.

Các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam là các quốc gia trong khu vực Châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Nhật Bản,Thái Lan. Việt Nam vẫn chưa nhận được nhiều FDI từ EU và nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới.

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10808 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó sẽ là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng. Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có những tác động tiêu cực đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư: - Với nước chủ đầu tư: vốn đầu tư chảy ra nước ngoài có khả năng làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm của quốc gia; khi các công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất những mặt hàng cùng loại sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư. - Với nước nhận đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan bảo hộ, làm mất tác dụng của công cụ thuế quan; tạo cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; FDI, nhất là của các TNCs, có thể gây nên những vấn đề phức tạp mới về chuyển giao các công nghệ quá hiện đại mà không phù hợp; lợi nhuận thu được có xu hướng chuyển ra nước ngoài, làm giảm tiềm lực phát triển kinh tế lâu dài; các nước phát triển có xu hướng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư; góp phần làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội mới như phân hóa đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xam”, tham nhũng, hối lộ… II. THỰC TRẠNG FDI TẠI VIỆT NAM TRONG THẬP KỶ ĐẦU THẾ KỶ 21 Tổng quan về FDI tại Việt Nam trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 và việc kí kết Hiệp Định thương mại Việt Mỹ đã có tác động lớn đến thái độ của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2003 vẫn không có nhiều biến chuyển so với giai đoạn trước đó. Lý do là cùng thời điểm đó, Việt Nam lại thực hiện mở cửa thị trường chứng khoán khiến cho dòng vốn chảy vào kênh khác hơn là FDI. Từ sau năm 2003, FDI bắt đầu tăng nhanh và đạt mức kỉ lục vào năm 2008 với số vốn đăng kí lên đến 71726 triệu USD, gấp 3,34 lần tổng vốn đăng kí năm 2007 (21347,8 triệu USD). Trong năm 2009 và 2010, FDI vào Việt Nam đã giảm đi so với năm 2008 do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Mặc dù vậy, lượng vốn đăng kí vẫn ở mức cao. Trong năm 2009, Việt Nam vẫn thu hút được 1.054 dự án với tổng vốn đăng kí là gần 21.500 triệu USD. Năm 2010 Việt Nam thu hút được 1155 dự án, tổng vốn đăng kí là 18595 triệu USD. [nguồn: theo số liệu từ Tổng cục thống kê và Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư nước ngoài]. Để thấy được bức tranh tổng quan về tình hình FDI vào Việt Nam trước và sau năm 2000, ta có thể tham khảo biểu đồ dưới đây. Biểu đồ FDI được cấp phép tại Việt Nam thời kỳ 1988 – 2010 Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê và Trung tâm Nghiên cứu Đầu tư nước ngoài. Theo biểu đồ trên, có thể thấy có một khoảng cách lớn và ngày càng tăng giữa FDI công bố và FDI thực hiện. Mặc dù lượng vốn FDI đăng ký được công bố là lớn, nhưng thực tế cho thấy sự chênh lệch giữa con số đăng ký và con số thực hiện ngày càng gia tăng. Tỷ lệ giải ngân đạt mức cao nhất trong giai đoạn 1997 – 2004 (73,5%), nhưng đã giảm mạnh xuống còn 30,4% trong giai đoạn 2006-2008. Một phần của nguyên nhân của tình trạng này là do xu hướng đua nhau thu hút FDI và có tình trạng khai quá lượng FDI thu hút được tại các địa phương. Phần khác là do việc thực hiện các dự án FDI gặp khó khăn so với dự kiến ban đầu hoặc do tình trạng nhiều nhà đầu tư đăng ký dự án chỉ để giữ chỗ hoặc lấy đất và sau đó bán lại dự án để thu lời. 2. Cơ cấu FDI tại Việt Nam a. Theo lĩnh vực đầu tư - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã chú trọng thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Trong giai đoạn trước năm 2000, chủ trương thu hút FDI của chính phủ là ưu đãi các dự án sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Đến giai đoạn 2000 – 2010, đặc biệt từ sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các ưu đãi đó. Trong giai đoạn này, định hướng FDI vào các lĩnh vực công nghiệp-xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo… (các sản phẩm mà Việt Nam có thế mạnh về nhân công). Đây cũng chính là những dự án mà Việt Nam có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao và có lợi thế so sánh. Vì vậy, cho đến nay các dự án thuộc các lĩnh vực nêu trên, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn giữ vai trò quan trọng, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định. Biểu đồ FDI trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Công nghiệp khai mỏ 130 10980.4 2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 7475 88579.5 3 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước 72 2231.4 4 Xây dựng 521 7964.4 Tổng số 8198 109755.7 Nguồn: Tổng cục thống kê. - Lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành luật đầu tư nước ngoài. Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có những chuyển biến tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuât, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ khách sạn, nhà hàng; các hoạt động kinh doanh tài sản và dịch vụ, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc, tài chính tính dụng tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động. Cùng với việc thực hiện lộ trình thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ, FDI tập trung chủ yếu vào các hoạt động liên quan đến tài sản và dịch vụ tư vấn bao gồm xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng KCN (54,42% tổng vốn FDI trong khu vực dịch vụ), nhà hàng, khách sạn (24,48); giao thông vận tải-liên lạc (10,64%). Biểu đồ FDI trong lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Khách sạn và nhà hàng 379 19402.8 2 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 554 8435.3 3 Tài chính, tín dụng 69 1103.7 4 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 1867 45505.7 5 Giáo dục và đào tạo 128 275.8 6 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 73 1033.3 7 HĐ văn hóa và thể thao 129 2838.0 8 HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng 118 658.3 Tổng số 3317 79252.9 Nguồn: Tổng cục thống kê. - Lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Đến hết năm 2009, lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp có 738 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng kí là 4379, 1 triệu USD. Trong số này, các dự án về nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn là 87,64% tổng vốn đăng kí ngành. Các dự án thủy sản chỉ chiếm 12,36%. Biểu đồ FDI vào Việt Nam trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp giai đoạn 1988-2009 Đơn vị: Triệu USD STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư 1 Nông nghiệp và lâm nghiệp 575 3837.7 2 Thủy sản 163 541.4 Tổng số 738 4379.1 Nguồn: Tổng cục thông kê. Cơ cấu FDI theo lĩnh vực tại Việt Nam giai đoạn 1988-2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tính đến hết năm 2009, so với cơ cấu FDI của thế giới, có thể thấy cơ cấu FDI của Việt Nam đã có sự chuyển dịch cùng chiều theo hướng tăng dần tỉ trọng các ngành dịch vụ. Cơ cấu này đã có sự thay đổi rất nhiều so với năm 2007, khi FDI vào dịch vụ mới chỉ chiếm 25% tổng số vốn đăng kí. Nguyên nhân của hiện tượng này là đến năm 2009, rất nhiều các hạn chế thâm nhập của Việt Nam về dịch vụ đã được dỡ bỏ theo cam kết gia nhập WTO trong đó có các hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ, phân phối, giáo dục. b. Cơ cấu FDI theo nước chủ đầu tư Cho đến nay, đã có 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó 69, 1% vốn đăng kí đến từ các nhà đầu tư Châu Á, 16,2% từ EU và 11,8% từ các nhà đầu tư Mĩ. Các nhà đầu tư sớm nhất đến thị trường Việt Nam là các nhà đầu tư từ Úc và EU bao gồm cả Unilever, British Petroleum và Shell. Các công ty Châu Á tham gia vào thị trường Việt Nam chậm hơn khi Việt Nam trở thành một địa điểm đầu tư tự nhiên đặc biệt là đối với các nhà đầu tư mở rộng sản xuất đối với dây chuyền may mặc. Các công ty Mĩ tham gia thị trường Việt Nam muộn nhất do bị hạn chế bởi lệnh cấm của Mĩ cho đến năm 1994. Các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam là các quốc gia trong khu vực Châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Nhật Bản,Thái Lan. Việt Nam vẫn chưa nhận được nhiều FDI từ EU và nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới. Cơ cấu FDI tại Việt Nam theo đối tác đầu tư năm 2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong giai đoạn 1988-2009, FDI đến từ 5 quốc gia Châu Á đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam đã chiếm đến 41,6% tổng vốn đăng kí. Điều này chứng tỏ là các doanh nghiệp EU chưa tham gia một cách tích cực vào thị trường Việt Nam mặc dù hộ có những lợi thế nhất định về qui mô. Tuy không phải là quốc gia có nhiều vốn đầu tư tại Việt Nam nhất, nhưng Hoa Kỳ vẫn thể hiện xu thế là nhà đầu tư lớn tại Việt Nam (năm 2009, Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD). Nhiều tập đoàn tên tuối lớn của Hoa Kỳ như Chevron, General Elctric, ConccoPhillips, AEC, AIG, Ceaterpillar, CitiGroup, ExxonMobil, Ford... đã có mặt tại Việt Nam và dự báo trong tương lai, Hoa Kỳ sẽ trở thành nhà đầu tư số 1 tại Việt Nam. Đáng lưu ý, trong những năm gần đây, dòng FDI từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam là khá lớn và trong năm 2010, Trung Quốc đã đứng hàng thứ 11, sau Top 10 có vốn FDI đăng ký vào Việt Nam, cho thấy xu các nhà đầu tư Trung Quốc cũng đang chuyển sự chú ý đáng kể đến Việt Nam. c.Cơ cấu FDI theo địa bàn Trên thực tế, cho đến năm 2010, tất cả 64 tỉnh thành trong ở Việt Nam đã thu hút được những lượng FDI nhất định. Tuy nhiên sự phân bổ của FDI theo tỉnh thành là không đồng đều; FDI chủ yếu tập trung ở các khu vực trọng điểm kinh tế, đặc biệt là tại các tỉnh có cơ sở hạ tầng phát triển nhất và có sẵn lao động có kĩ năng. Cơ cấu FDI tại Việt Nam theo địa bàn năm 2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê. Vùng Đồng bằng Sông Hồng có tổng số 3230 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 37 tỉ USD, chiếm 20% tổng số vốn đăng kí cả nước, trong đó Hà Nội đứng đầu chiếm 56% số dự án và 59% số vốn đăng kí cả vùng. Tiếp đến là Hải Phòng (390 dự án với tổng vốn đăng kí là 7,78 tỉ USD), tiếp đến là Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (với xấp xỉ 200 dự án và vốn đăng kí hơn 2 tỉ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút được 7344 dự án với tổng vốn đăng kí là 89,66 tỉ USD, chiếm 47% tổng vốn đăng kí trong đó thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước với 3683 dự án với tổng vốn đăng kí là 30, 98 tỉ chiếm 34,55% vốn đăng kí của vùng. Tiếp theo thứ tự là Bà Rịa - Vũng Tàu( với 296 dự án với tổng vốn đăng kí là 25,7% tỉ) chiếm 28,7% tổng vốn đăng kí vùng;Đồng Nai xếp thứ ba vùng với 19,8% tổng vốn đăng kí; tiếp đến là Bình Dương với 15,5% tổng vốn đăng kí. Vùng trọng điểm miền Trung nổi lên mạnh mẽ trong hai năm 2008, 2009 và thu hút được lượng FDI tăng đột biến trong 2 năm này. Cho đến năm 2007, FDI vào khu vực này mới chỉ chiếm 6% tổng vốn đăng kí cả nước thì đến hết năm 2009, khu vực này đã thu hút được 820 dự án đầu tư với vốn đăng kí là 51,73 tỉ USD chiếm 27% tổng vốn đăng kí cả nước, trong đó đứng đầu là Ninh Thuận với 22 dự án với vốn đăng kí là 10 tỉ USD, tiếp đến là Phú Yên với 52 dự án và 8 tỉ USD. d. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư Hiện nay hình thức 100% vốn nước ngoài hiện chiếm 74,4% tổng số dự án; 50,7% vốn đăng kí; trong khi đó hình thức liên doanh chiếm 22, 2% số dự án và 38% vốn đăng kí. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 3.1% tổng số dự án, 8,3% vốn đăng kí; số còn lại là dưới các hình thức khác như BOT, công ty cổ phần... 3. Đóng góp của FDI vào GDP của Việt Nam FDI là một nguồn vốn quan trọng đóng góp vào GDP ở Việt Nam. Theo số liệu của từ Tổng cục thống kê, tỷ trọng FDI trong tổng đầu tư vốn của Việt Nam tăng từ 12% năm 2006 lên 25,5% năm 2007 và 24,1% năm 2008, 30% vào năm 2009 . Đóng góp của FDI trong GDP của Việt Nam cũng rất lớn và ngày càng tăng từ 6.3% năm 1995 lên đến 19% năm 2009. Bảng thống kê đóng góp của các khu vực kinh tế vào GDP (%) Khu vực kinh tế 2002 2003 2005 2007 2009 Tổng GDP 100 100 100 100 100 Khu vực nhà nước 39 39 38 36 33 Khu vực tư nhân 48 46 46 46 48 Khu vực FDI 13 15 16 18 19 Nguồn: Tổng cục thống kê. III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Trên cơ sở nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thập kỷ đầu thế kỷ 21 có thể thấy hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những mặt hạn chế cần khắc phục như sau: Về bộ máy quản lý: Hoạt động phân cấp quản lý còn thiếu hiệu quả, các tỉnh chạy đua cạnh tranh thu hút FDI phá vỡ các qui hoạch về ngành nghề, địa phương. Việc thực hiện chức năng phân tích, dự báo, thẩm định, cấp phép, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ của các doanh nghiệp FDI còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả, không theo kịp khối lượng cũng như mức độ phức tạp của hoạt động FDI tại Việt Nam. Hoạt động quản lý các dự án trong quá trình thực hiện còn gây nhiều phiền hà, rắc rối cho doanh nghiệp FDI. Về công tác qui hoạch và lập chiến lược: Cho đến nay, dù đã ý thức được tầm quan trọng của một chiến lược FDI, Việt Nam vẫn chưa đưa ra một chiến lược tổng thể và một qui hoạch cụ thể đối với FDI cho nên hoạt động thu hút và sử dụng FDI còn mang tính tự phát và thiếu đồng bộ. Công tác qui hoạch ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn nhiều bất cập đặc biệt là trong bối cảnh phân cấp cấp phép và quản lý FDI về các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Về hệ thống chính sách và pháp luật liên quan đến FDI: Các chính sách về thâm nhập FDI còn duy trì nhiều hạn chế, các chính sách khuyến khích FDI còn dàn trải, và không hiệu quả chưa hướng FDI vào các lĩnh vực và khu vực mong muốn. Các luật điều chỉnh còn chưa bao trùm hết các khía cạnh của hoạt động FDI, đặc biệt là hoạt động M&A và hoạt động cạnh tranh. Còn có sự thiếu đồng bộ, mâu thuẫn giữa luật chung và luật chuyên ngành, hiệu lực pháp luật còn chưa cao. Hoạt động xúc tiến đầu tư vẫn chưa được quan tâm đúng mức bằng nguồn ngân sách hợp lý. Hoạt động này còn thiếu chuyên nghiệp, nội dung và hình thức chưa phong phú, còn chồng chéo mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực. Thiếu một văn bản pháp luật cụ thể qui định về xúc tiến đầu tư khiến cho cơ chế phối hợp giữa các bộ ngành địa phương còn chưa hiệu quả. Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực phục vụ FDI chưa có định hướng chiến lược dài hạn, chiến lược về nhân lực còn tách rời với chiến lược kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiêp FDI về lao động lành nghề, công nhân kĩ thuật cao và cán bộ quản lý. Hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng thiếu hiệu quả. Việt Nam đã đầu tư rất nhiều vốn và kêu gọi nhiều hinh thức đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhưng năng lực cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn không theo kịp được sự phát triển kinh tế nói chung cũng như nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng. Các khâu yếu nhất của cơ sơ hạ tầng bao gồm: hệ thống đường giao thông, cảng biển, điện vẫn chưa được cải thiện. Xét từ góc độ khả năng thu hút đầu tư, các tồn tại trong cơ sỏ hạ tầng, hệ thống chính sách và pháp luật là những rào cản lớn nhất. Theo Jestro (2007), các hạn chế lớn nhất trong môi trường đầu tư của Việt Nam liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về FDI là: cơ sở hạ tầng yếu kém, hệ thống pháp luật kinh tế kém phát triển; chính sách quản lý của chính quyền địa phương thiếu minh bạch. Xét về góc độ quản lý FDI theo mục tiêu phát triển của Việt Nam, các tồn tại trong qui hoạch, xúc tiến đầu tư và đảm bảo các dự án FDI thực hiện đúng các nghĩa vụ đối với Việt Nam đang là những hạn chế lớn nhất. Tất cả những hạn chế này, đều có những ảnh hưởng tiêu cực lên hoạt động thu hút và sử dụng FDI trong ngắn hạn và dài hạn. Trước đà phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đang đứng trước những tiềm năng thu hút FDI hết sức to lớn. Nguồn vốn này nếu được sử dụng hiệu quả sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế đưa Việt Nam đến gần hơn với mục tiêu bước đầu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Muốn vậy, Việt Nam cần phát huy những kết quả tốt đã đạt được và nhanh chóng khắc phục các tồn tại trong hoạt động thu hút và sử dụng FDI trong thời gian qua. Chính phủ Việt Nam cũng đã sớm nhìn nhận vấn đề này và đã ban hành Nghị Quyết 13/NQ-CP ngày 07/04/2009 về định hướng, giải pháp thu hút và quản lý FDI trong thời gian tới. Nghị Quyết khẳng định nhiệm vụ tổng quát trong công tác đầu tư nước ngoài trong thời gian tới là tập trung khắc phục các mặt tồn tại của môi trường đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần đạt mục tiêu đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và bền vững môi trường. Đây là những định hướng và yêu cầu đối với công tác thu hút và quản lý FDI hoàn toàn phù hợp với tình hình hoạt động hiện nay và xu hướng FDI trong thời gian tới. Tuy nhiên, để thực hiện được những mục đích và yêu cầu đó, cần phải có những giải pháp cụ thể hơn trong công tác quản lý và sử dụng FDI. IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 1.Nhóm các giải pháp chung a.Hoàn thiện các chính sách về FDI Việc thiếu một chiến lược riêng đối với FDI, chính sách FDI thiếu đồng bộ, không có qui hoạch hợp lý là một trong những yếu tố gây khó khăn cho hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI. Do đó, để nâng cao hiệu quả của công tác này, trước hết cần hoàn thiện các chính sách cũng như nâng cao hiệu quả của các chính sách. Trước hết, cần nhanh chóng xây dựng một qui hoạch cụ thể cho vốn FDI. Qui hoạch mới về FDI của Việt Nam cần được hình thành trên cơ sở khảo sát và đánh giá khách quan thực trạng tình hình thu hút FDI thời kỳ 2001 - 2010, định hướng, mục tiêu của Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, xu thế phát triển của FDI thế giới sau khủng hoảng kinh tế với sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs). Qui hoạch này cần hình thành theo 4 định hướng lớn, gồm chất lượng và hiệu quả cao; phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các - bon; có cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự án và lao động có kỹ năng cao; Đưa ra những yêu cầu cụ thể về hạ tầng và lao động để từ đó lập các chiến lược, kế hoạch về lao động và hạ tầng phù hợp, thống nhất. Trong qúa trình xây dựng qui hoạch, đổi mới chính sách FDI cần tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, các bộ ngành, để có thể biết được nhu cầu thực sự của ngành đối với sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoàivà khả năng thực hiện chính sách của các cơ quan này. Xây dựng nhóm kĩ trị năng động, chịu trách nhiệm trực tiếp với Thủ tướng, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, có trình độ, từ các Bộ ngành để tham gia, lồng ghép ý tưởng. Nhóm này sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cho toàn Chính phủ, thường xuyên có tương tác hai chiều với Thủ tướng và các Bộ, cơ quan thực thi chính sách. Sau nữa cần tạo cơ chế để các bộ ngành thường xuyên trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là những nhà đầu tư đang hoạt động với qui mô lớn để tránh cho họ những rủi ro khi có thay đổi về chính sách và giải quyết các vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của họ. Tiếp tục phát huy hoạt đông gặp gỡ hàng năm giữa Thủ tướng và các doanh nghiệp, phát triển hoạt động này thành những cuộc gặp gỡ riêng của thủ tướng và các doanh nghiệp FDI, như vậy các doanh nghiệp FDI và nhà nước sẽ có cơ hội trao đổi tiến đến những mục tiêu chung. b.Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý; nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan chức năng Để thực hiện phân cấp quản lý FDI một cách có hiệu quả thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có đầy đủ năng lực từ đội ngũ hành chính thông thường cho đến đội ngũ cán bộ chuyên trách về hoạch định, xúc tiến đầu tư, đào tạo nhân lực, đội ngũ thanh tra hoạt động FDI. Để thực hiện được điều đó, trước hết cần rà soát lại đội ngũ cán bộ đang làm việc tại các cơ quan liên quan trực tiếp tới FDI, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập quán thông lệ quốc tế. Các chương trình đào tạo đặc biệt cần được xây dựng để trang bị cho người học không chỉ những kĩ năng và kiến thức về đầu tư và tài chính, các kĩ năng tính toán mà còn trang bị cho họ khả năng bao quát tình hình kinh tế vĩ mô, các về văn hóa, xã hội học, nhân khẩu học, marketing có tính đến yếu tố quốc tế vì FDI gắn với các TNCs đầu vào và đầu ra là các thị trường quốc tế.Trang bị cho đội ngũ này đấy đủ kiến thức về quản lý nhà nước và khả năng kết hợp giữa kiến thức về đầu tư với kiến thức quản lý. Đối với các cán bộ không đủ tiêu chuẩn vừa phải đào tạo lại (nếu còn trẻ), vừa phải mạnh dạn chuyển công tác đi cơ quan khác. Thứ hai, cần chú trọng đào tạo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Mở các khóa học đào tạo ban đầu, đào tạo dài hạn, và sau đó chú trọng mở các khóa đào tạo ngắn hạn vài ngày, một vài tuần nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong suốt quá trình. Phải có cơ chế chính sách tuyển dụng và sử dụng và đãi ngộ tương ứng với năng lực và hiệu quả công việc đã thực thi. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ thanh tra có năng lực và chuyên môn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ và tài chính để phục vụ tốt hơn nữa hoạt động quản lý đối với các dự án FDI sau cấp phép. c. Tăng sự phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý Do đặc điểm của hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI là bao gồm rất nhiều nội dung, các nội dung này lại thuộc các lĩnh vực chuyên môn không giống nhau, cần có sự tham gia của nhiều bộ ngành, cơ quan để các hoạt động có thể thống nhất theo một mục đích chung. Ngoài ra, cấp Trung ương và địa phương cũng cần phối hợp với nhau để đảm bảo các chính sách FDI của nhà nước được thực thi đúng ở địa phương và các thông tin về FDI ở địa phương được cập nhật kịp thời về Trung ương cho mục đích phân tích dự báo. Do đó cần có biện pháp để tăng sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý các bộ ngành, các cấp; đồng thời, phải tăng trách nhiệm giải trình của từng bộ ngành, cơ quan, từng vị trí cán bộ để những người làm công tác quản lý có trách nhiệm hơn đối với các quyết định quản lý của mình. Trên cơ sở rà soát, tổng kết, đánh giá tình hình phân cấp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch đầu tư cần lấy ý kiến của các bộ, ngành và địa phương nghiên cứu và ban hành một văn bản quy định về quy chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, và giữa các bộ ngành trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Cần tạo ra cơ chế giúp các Bộ, cơ quan có báo cáo nhanh, cập nhật thông tin hàng tháng về tình hình tiếp nhận, cấp Giấy chứng nhận đầu tư và vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi thẩm quyền của mình về Bộ Kế hoạch và Đầu tư một cách cập nhật nhất. d. Tăng trách nhiệm giải trình của các cơ quan và cá nhân tham gia quản lý FDI Việc này có thể được thực hiện bằng cách yêu cầu các bộ, ngành tham gia thẩm tra dự án có trách nhiệm trả lời trong thời hạn quy định; đồng thời chịu trách nhiệm về các nội dung thẩm tra thuộc chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan mình; đặc biệt là các nội dung về quy hoạch, đất đai, môi trường, công nghệ…Qui định quyền và trách nhiệm cụ thể đối với người đứng đầu các cơ quan quản lý cũng như những chế tài đối với việc thực hiện không đúng chức năng, quyển hạn. Các cơ quan quản lý cần công khai các chính sách về FDI, đặc biệt là nguồn ngân sách cho hoạt động xúc tiến, đào tạo nhân lực và xây dựng hạ tầng cho FDI. Công khai danh tính của công chức và chấp nhận cơ chế đánh giá cán bộ công chức hàng năm dối với đội ngũ cán bộ trực tiếp giải quyết các vấn đề liên quan đến FDI. e .Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính Xây dựng được một nền hành chính thống nhất, thông suốt là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Do đó, để nâng tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về FDI, nhất thiết phải thực hiện cải cách hành chính để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI, và cho chính cho các cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý của mình. Trước hết, cần sắp xếp bộ máy các cơ quan theo hướng tinh giảm gọn nhẹ, ít đầu mối: Các cơ quan quản lý FDI các cấp cần rà soát lại hệ thống phòng ban chức năng và đội ngũ cán bộ. Xóa bỏ, hợp nhất những phòng ban có chức năng tương đương hoặc có thể hợp nhất để tạo ra hệ thống quản lý đơn giản nhất, loại bỏ những qui định chồng chéo và tiết kiệm thời gian cho nhà đầu tư. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý hành chính: đổi mới tư duy từ “ban phát” sang “phục vụ”. Cần có chế độ lương bổng và đãi ngộ chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận cao học- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) trong thập niên đầu thế kỷ 21, những vấn đề đặt ra và giải pháp.doc
Tài liệu liên quan