Tiểu luận Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010

MỤC LỤC

 

 

Lời mở đầu 01

PHẦN I: :LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 02

I.Tổng quan về chính sách tiền tệ 02

1. Vai trò của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với chính sách tiền tệ 02

2. Chính sách tiền tệ. 03

2.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ 03

2.2. Phân loại chính sách tiền tệ 03

2.3. Đặc điểm của chính sách tiền tệ 03

2.4. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 04

2.4.1. Mục tiêu tiền tệ 04 2.4.2. Mục tiêu kinh tế. 05

II. Các công cụ của chính sách tiền tệ 06

III. Bài học kinh nghiệm của NHTW Nhật Bản trong việc chống khủng hoảng

kinh tế toàn cầu. 08

PHẦN II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN

2008 -2010 09

I. Chính sách tiền tệ năm 2008 10

1. Bối cảnh chung năm 2008 10

2. Biện pháp 10

3. Đánh giá Chính sách tiền tệ 2008 14

II. Chính sách tiền tệ năm 2009. 16

1. Bối cảnh chung năm 2009 16

2. Biện pháp 16

3. Đánh giá Chính sách tiền tệ 2009 19

III. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NĂM 2010 20

1. Bối cảnh chung năm 2010 20

2. Biện pháp 20

3. Đánh giá Chính sách tiền tệ năm 2010 22

PHẦN III : CÁC GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI 23

KẾT LUẬN 26

 

doc28 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 10213 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và các tổ chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế do đó NHNN có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. - Nhược điểm: Hạn chế khả năng sinh lời của đồng tiền. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động NHNN mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. - Ưu điểm: NHNN tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM, buộc các NHTM phải gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng. - Nhược điểm: Biện pháp này chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong lưu thông đều nằm tại các NHTM. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHNN nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. - Ưu điểm: NHNN có thể tác động trực tiếp đến các dự án đầu tư bằng các điều kiện tín dụng. - Nhược điểm: Lãi suất được ấn định có thể không phù hợp với nền kinh tế, gây khó khăn cho việc thực hiện các dự án đồng thời tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy giảm. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHNN để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHNN buộc các NHTM phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. - Ưu điểm: Có thể kế hoạch một cách chắc chắn khối lượng tiền trong lưu thông. - Nhược điểm: Thiếu linh hoạt khi tình hình biến động và chỉ thực hiện được trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. III. Bài học kinh nghiệm của NHTW Nhật Bản trong việc chống khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Năm 2009, nền kinh tế toàn cầu đang trải qua một cuộc khủng hoảng với quy mô chưa từng có. Nhiều quốc gia đang phải vật lộn với những hậu quả của tình trạng quá tải tín dụng. Câu hỏi làm sao để vượt qua tình cảnh khó khăn này đang là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương các nước trên toàn thế giới. Trong bối cảnh đặc biệt này, cuộc khủng hoảng của Nhật Bản diễn ra hơn một thập kỷ trước đang gây nên sự quan tâm của rất nhiều người. Nhật Bản đã trải qua một chu kỳ từ tăng trưởng mạnh mẽ đi đến suy sụp từ những năm cuối của thập kỷ 80 cho đến đầu thế kỷ này. Trong cả thập kỷ 90, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái kéo dài. *Những đặc điểm của cuộc khủng hoảng tại Nhật Nền kinh tế Nhật Bản đã lâm vào tình trạng trì trệ trong suốt thập kỷ 90. Trong thời gian đó, tỷ lệ tăng trưởng thực bình quân hàng năm là 1,3%, thấp hơn nhiều so với 4% của thập kỷ trước đó. Tuy nhiên, thậm chí trong năm 1998 là năm tồi tệ nhất sau thời kỳ bong bóng, tỷ lệ tăng trưởng của nước này là – 1,5%. Trên thực tế, giá bất động sản tại các thành phố lớn của Nhật bản từ giá trần giảm xuống giá sàn tới mức -70-80% trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm xuống mức -3% từ 1997 đến 2004. Khó khăn thực sự mà Nhật Bản vấp phải là sự gắn kết nguy hiểm giữa giảm phát tài sản và tình trạng tổn thương của hệ thống ngân hàng. Sau khi thời kỳ bong bóng nổ tung, tăng trưởng của Nhật Bản có biểu hiện trì trệ diễn ra trong một thời gian dài. Từ thập kỷ 80 bước sang thập kỷ 90, Nhật Bản không thích ứng kịp thời với những thay đổi sâu sắc trong nền kinh tế toàn cầu như làn sóng phân cấp, toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghệ thông tin – viễn thông. * Bài học kinh nghiệm Thứ nhất, “các hành động táo bạo” không phải luôn luôn được đánh giá là táo bạo sau khi đã thực hiện. Chính phủ Nhật Bản đã bơm một nguồn vốn lớn vào năm 1999 nhưng nó không đủ để hạn chế cái vòng luẩn quẩn giữa suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính. Chính vì vậy nó lại tạo ra tác dụng trái ngược. Thứ hai, về mặt chính trị, đối với cuộc khủng hoảng ngân hàng tại Nhật Bản, những hành động chính sách táo bạo và nhanh chóng để duy trì ổn định tài chính xem ra không được lòng dân. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách phải làm cho dân chúng tin rằng các hoạt động khống chế khủng hoảng của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương không nhằm mục đích cứu vãn các ngân hàng đổ vỡ mà là nhằm cữu vãn toàn bộ hệ thống tài chính ngân hàng. Thứ ba, các chính sách kinh tế vĩ mô không phải là phương thuốc chữa trị bách bệnh mặc dù nó đóng một vai trò chính yếu trong việc chống suy giảm kinh tế trầm trọng. Không thể phục hồi tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nếu không thanh toán những hậu quả thái quá xảy ra trong giai đoạn bong bóng. Cũng như vậy, các chính sách kinh tế vĩ mô không thể giải quyết những tổn thất về năng suất phát sinh từ khả năng bất lực của các công ty không thể điều chỉnh các mô hình kinh doanh của mình. * Biện pháp chống khủng hoảng. 4 nhân tố chủ chốt trong việc chế ngự khủng hoảng tài chính. 1) Cung cấp đủ nguồn thanh khoản, 2) Hỗ trợ cho các hoạt động của thị trường tài chính, 3) Kích cầu kinh tế vĩ mô, 4) Bơm vốn nhà nước và loại bỏ những nhân tố bất ổn trong bảng cân đối tài sản. PHẦN II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG GIAI ĐOẠN 2008 -2010 I. Chính sách tiền tệ năm 2008 1. Bối cảnh chung năm 2008 Từ cuối năm 2007 và sau 2 tháng đầu năm 2008, nguy cơ lạm phát tăng cao và đã khiến các nhà quản lý vĩ mô lo lắng. Mặt khác, trong thời gian này thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản đều có vấn đề. Tình trạng đầu cơ và kinh doanh theo “bầy đàn” làm cho giá hàng loạt các loại cổ phiếu và bất động sản đều ở tình trạng “bong bóng”. Lượng tiền cung ứng và dư nợ tín dụng tăng mạnh từ cuối năm 2007 tiếp tục gây áp lực trực tiếp đến lạm phát”, trong đó dư nợ cho vay khá lớn, để đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) cũ là một trong những tác nhân gây tăng lạm phát. Cùng với đó là luồng vốn nước ngoài (bao gồm FDI và kiều hối...) đổ vào Việt Nam tăng mạnh, trong khi quản lý nhà nước trong lĩnh vực này còn lúng túng. Trong khi đó, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Mỹ (nền kinh tế lớn nhất thế giới) cũng đang gặp phải khó khăn. Vụ đổ bể tín dụng nhà đất ở Mỹ buộc Chính phủ và Ngân hàng Trung ương Mỹ phải ra tay cứu trợ. Giá cả thế giới tăng, trong đó đặc biệt là giá xăng, dầu, sắt thép, vàng biến động bất thường, chưa từng xảy ra ở mức cao như vậy. Với mục tiêu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán và kìm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường BDS. Ngân hàng nhà nước Việt Nam đứng trước một bài toán khó trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ. Tất cả những khó khăn trên được đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của NHNN. 2. Biện pháp 2.1 Biện pháp của ngân hàng nhà nước việt nam. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu của tháng 2 năm 2008, các ngân hàng thương mại đã phải thực hiện đồng thời 4 quyết định về thắt chặt tiền tệ của NHNN. 1/ Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng them phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc. Các ngân hàng nhà nước phải nộp 20000 tỷ cho NHNN. 2/ Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm. => Là 1 điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các ngân hàng thương mại. 3/ Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. 4/. NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. =>Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và hoạt động của NHTM. Có thể nói đây là 1 cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế VN, ngăn chặn sự leo thang mất giá dồng tiền và lạm phát è Năm 2008 là năm thắt chặt tiền tệ. 2.2 Phản ứng của các ngân hàng thương mại 1/Lãi suất ngân hàng đã ở mức cực kỳ nguy hiểm. Trước tiên thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử nền kinh tế Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần Cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng nhằm mục đích giữ khách hàng của mình không rút tiền gửi diễn ra gay gắt, chẳng hạn như: Ngày 20/2/2008, NHTM CP Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm. Không chịu thua, ngày 21/2/2008 NHTM cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. è Lãi suất ngân hàng đã ở mức “cực kỳ nguy hiểm”. Là nguyên nhân tiềm ẩn của cơn đổ vỡ những quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng trong thời điểm lạm phát lên đến 200%-300% như lúc này. 2/Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm… è một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm của các ngân hàng thương mại. èCác giải pháp của NHNN trước hiện tượng này: ● Thị trường “căng” đến mức ngày 22/2/2008. NHNN phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số NHTM trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008. ● Trong vòng 1 tuần , NHNN phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của NHNN từ trước đến nay. 2.3. Chính sách tiền tệ cuối năm 2008 Sau 1 thời gian thắt chặt tiền tệ , ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất nhằm nới lỏng thị trường. Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản. Ngày 20/10/2008, NHNN ban hành 1 loạt những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ. Quyết định số 2316/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm. Theo đó lãi suất cho vay bằng VND của các ngân hàng thương mại trên thị trường từ ngày 21/10/2008 tối đa là 19,5%/năm, thay cho mức 21%/năm trước đó. Quyết định số 2317/QD- NHNN về quy định cho thanh khoản trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc theo nhu cầu của các tổ chức tín dụng. Quyết định số 2318/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng, lãi suất tái cấp vốn được giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống 12%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm từ 15%/năm xuống 14%/năm. Quyết định số 2321/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5%/năm tăng lên 10%/năm. Từ ngày 5/11/2008 Lãi suất liên tục giảm cho đến cuối năm 3. Đánh giá Chính sách tiền tệ 2008 3.1. Thành công - Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã tạo ra nhiều tín hiệu tích cực cho nên kinh tế, giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió năm 2008. Đặc biệt đó là sự điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ giai đoạn cuối năm 2008. Thể hiện rõ qua: Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc tăng mạnh, tạo một thuận lợi lớn, hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí vốn, hỗ trợ cho mục tiêu lợi nhuận sắp tới; gián tiếp tạo điều kiện để các ngân hàng có thể xem xét tiếp tục giảm lãi suất cho vay đầu ra, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng Đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định. Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng. Nền tài chính quốc gia không sụp đổ, bảo đảm cho sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội. Đó là mối quan hệ nhân quả của chính sách tiền tệ đúng. èChính sách tiền tệ là thành công lớn nhất của năm 2008. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô 3.2 Hạn chế và nguyên nhân *Có những thời điểm các NHTM thiếu hụt trầm trọng về vốn, làm đẩy lãi suất lên quá cao trong thời gian quá ngắn, gây hỗn loạn thị trường. Nguyên nhân: Tuy NHNN đã cung cấp mức hỗ trợ thanh khoản lớn nhưng chỉ có các NHTM Nhà nước, một số ít NHTM cổ phần quy mô lớn… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn, còn phần đông các NHTM thì không. Do đó các NHTM quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng của các NHTM lớn với mức lãi suất cao, làm các NHTM thiếu hụt vốn nghiêm trọng, dẫn tới phải tăng lãi suất lên cao trong thời gian ngắn. * Tiếp đó là Chính sách phát triển kinh tế nóng. Tháng 11/2007 tuy đã có tiếng nói cảnh báo nhưng Chính phủ vẫn đặt chỉ tiêu tăng trưởng GDP từ 8,5- 9%, tạo việc làm cho 1,7 triệu lao động, xuất khẩu vẫn tăng… Việc đặt chỉ tiêu như vậy đã tạo ra hoàn cảnh khó khăn hơn cho nền kinh tế trong 8 tháng đầu năm 2008. * Định hướng thực hiện các giải pháp là đúng nhưng liều lượng, thời gian tiến hành chưa thích hợp, nhuần nhuyễn. Liều lượng quá nhiều, căng thẳng cùng một lúc, trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng đang ở mức thấp. Nguyên nhân: + Chính phủ đã  không đánh giá kịp thời tác động của khủng khoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam khi  nhận định ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới không ảnh hưởng đến Việt Nam. + Chính sách vĩ mô không dự báo được xu hướng cũng như bối cảnh kinh tế  khu vực và thế giới. II. Chính sách tiền tệ năm 2009 1.Bối cảnh chung năm 2009 Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá... Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, lúc thắt chặt...lúc nới lỏng, ngành ngân hàng cả nước đã góp phần quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tạo đà cho năm 2009. năm 2009 là năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên toàn thế giới. Trước tình hình đó, Việt Nam đã chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Với đặc điểm nếu duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ thì sẽ dẫn đến suy giảm tăng trưởng, nhưng nếu nới lỏng tiền tệ thì sẽ đi liền nguy cơ lạm phát. 2. Biện pháp Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ, ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế. Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm. Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009) Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn định. Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan) 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND. Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh. Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng do chính sách điều tiết vĩ mô làm lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá. Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối. 3.Đánh giá Chính sách tiền tệ 2009 3.1. Thành công Năm 2009, mặc dù NHNN phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô. Những biện pháp giảm áp lực giảm giá VND, nâng cao kỷ luật thị trường tiền tệ cùng với việc nâng tỷ giá công bố lên 5,4% tạo sự ổn định và thích ứng hơn với thị trường. Thêm vào đó những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, hướng việc mở rộng tín dụng vào những lĩnh vực sản suất, nông nghiệp nông thôn sẽ có tăng động tích cực đến tăng trưởng kinh tế năm 2010 è Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại 3.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế: Bên cạnh những thành công trên thì việc điều hành CSTT của NHNN trong năm 2009 vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề, thể hiện rõ đó là: Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt ngân sách cao. Lạm phát có xu tăng. Tiếp đó là cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trạng khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Nguyên nhân: Nguyên nhân chính của những hạn chế trên là NHNN trong một số điều chỉnh của mình còn chậm. Chưa thực sự hoàn thiện các công tác nghiên cứu , dự đoán tình hình. Tiếp đó là do thực hiện phối hợp giữa các giải pháp tiền tệ và công cụ CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác chưa hiệu quả. III. Chính sách tiền tệ năm 2010 1. Bối cảnh chung năm 2010 ü Lãi suất cơ bản giữa nguyên là 8%. ü Lãi suất chiết khấu là 6%. ü Lãi suất tái cấp vốn là 8%. Năm 2010 Nhà nước đã đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát cao, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các năm tiếp theo. 2. Biện pháp Ngày 6/1/2010 NHNN bơm 15000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị Trường mở Động thái này của NHNN làm cho lãi suất vay vốn giữa các N

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrình bày lý luận chung và thực trạng chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2008 -2010.doc
Tài liệu liên quan