Tiểu luận Đô la hóa- Hiện trạng và giải pháp khắc phục trong điều kiện Việt Nam

MỤC LỤC

 

 

MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG .2

Chương 1 ĐÔ LA HÓA LÀ GÌ ? 2

Chương 2 NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA 6

Chương 3 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA .12

Chương 4 BIỆN PHÁP GIẢM MỨC ĐỘ ĐÔLA HÓA 18

KẾT LUẬN .22

TÀI LIỆU THAM KHẢO .23

 

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Đô la hóa- Hiện trạng và giải pháp khắc phục trong điều kiện Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gửi tại các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khoảng từ 20 - 25%. Tuy nhiên, những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng đôla tại các ngân hàng không ngừng tăng lên, đặc biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ chí Minh. _ Thêm vào đó một lĩnh vực bị đôla hóa khá mạnh là bán hàng qua mạng, nhất là các mặt hàng nhập khẩu như đồ điện tử, thiết bị gia dụng,…Hầu hết các trang web kinh doanh các mặt hàng này đều niêm yết giá song song bằng VND và USD nhưng trên thực tế thanh toán chủ yếu bằng USD. Mặc dù, theo quy định về quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc niêm yết giá các hàng hóa, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. Việc niêm yết giá bằng ngoại tệ (phổ biến là USD) là vi phạm pháp luật nhưng việc niêm yết giá bằng USD khá phổ biến đối với các mặt hàng như: điện tử, ô tô, xe máy, bất động sản, khách sạn, du lịch. Ngoài ra, có những đầu mối cung cấp hàng cho các công ty trong nước chào giá USD song song với VNĐ nhưng thực tế chỉ chấp nhận thanh toán bằng USD. Một số ví dụ cụ thể như :Các điểm bán tour của Saigontourist (một công ty du lịch lớn ở thành phố Hồ Chí Minh) cũng niêm yết giá bằng USD và tiền đồng, tour cá nhân bán bằng ngoại tệ, còn tour tập thể được bán bằng VNĐ,khi khách hàng thanh toán tiền đồng, nhân viên bán hàng sẽ quy đổi sang USD và ngược lại. Hiện nay các tour du lịch nước ngoài đều chào giá USD và mỗi đơn vị lữ hành áp dụng tỉ giá quy đổi khác nhau Một số nhà hàng, khách sạn cũng treo bảng giá phòng, giá tiệc buffet bằng USD. Dịch vụ spa, kinh doanh mỹ phẩm, nữ trang, đồng hồ... cũng tương tự Tại Trung tâm Thương mại Eden (TPHCM) những sản phẩm lưu niệm thuần túy Việt Nam vẫn niêm yết giá bằng USD. Trên thị trường nhà đất, tình trạng niêm yết USD cũng khá phổ biến. Tại các sàn giao dịch bất động sản, có đến 30% căn hộ chào bán bằng USD. Website giao dịch bất động sản ngân hàng Á Châu ACB luôn thể hiện thông tin “căn hộ Phú Hoàng Anh 1.250 USD/m2, Hoàng Anh River View 1.350 USD/m2. Hàng loạt văn phòng cho thuê cũng chào giá bằng ngoại tệ. Điều đáng nói, các yếu tố để hình thành bất động sản như đền bù mặt bằng, mua đất, vật liệu xây dựng... đều thanh toán bằng VNĐ, song đầu ra của nó lại được tính bằng ngoại tệ. Nếu một số hàng hóa giao dịch USD lẫn VNĐ thì thị trường ô tô niêm yết hoàn toàn bằng USD ( Ví dụ: Mục tin tức của Công ty Ô tô Trường Hải cũng thể hiện xe New Carens có giá 28.800 USD. Công ty Suzuki Việt Nam chào bán ô tô APV BTLimited với giá 23.490 USD... ) Đáng quan tâm hơn, một số khoản tiền thưởng mang tính chất quốc gia cũng được tính bằng đôla (như tiền thưởng cho đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam cũng được các đơn vị tính bằng đôla). Công bố thông tin về thu nhập bình quân đầu người, người ta cũng dùng đồng đô la (mặc dù là thu nhập của người Việt Nam). Chính phủ đưa ra gói kích cầu trong tình hình kinh tế suy thoái hiện nay, khi công bố tổng số tiền kích cầu người ta cũng dùng đồng đô la. CHƯƠNG 2 NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước đang và chậm phát triển . Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị. Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng của tiền tệ, đó là: • Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị. • Chức năng làm phương tiện cất giữ. • Chức năng làm phương tiện trao đổi. Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước. Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao. Đối với trường hợp Việt Nam ngoài các yếu tố trên, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng đô la hoá: 1/ Giá trị đồng nội tệ không được tin tưởng là có độ ổn định cao Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VNĐ. Nguyên nhân hiện tượng này mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng. Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 3% - 4%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên. Bên cạnh đó, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng 2/Giá trị 1 đơn vị nội tệ quá thấp so với một đơn vị ngoại tệ mạnh, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với gần 1,8 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ. Chúng ta lấy ví dụ sau: Nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 Đ(mệnh giá cao nhất của VND hiện nay) hoặc 300 tờ 100.000 Đ. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 USD , nếu bằng euro chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Hoặc khi người ta cần trao tay cho nhau tiền mặt với giá trị lớn, rõ ràng sử dụng VND là quá cồng kềnh và bất tiện. 3/Ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ: +Nguồn kiều hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây không ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993: 140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99 triệu USD; 1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD; 2000: 1,757 triệu USD; 2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD;năm 2003: 2.580 triệu…. Đó là con số thống kê được qua hệ thống ngân hàng, chưa kể ngoại hối được chuyên ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều mang trực tiếp theo người khi nhập cảnh, người xuất khẩu lao động gửi tiền về nước. + Ngành du lịch của Việt Nam rất được quan tâm phát triển. Thực tế là hàng năm nước ta thu hút một lượng rất lớn lượt khách ( năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu ) do đó lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài  cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam. Khoản chi tiêu đó bao gồm cả những dịch vụ đi kèm như nhà hàng, khách sạn, quà lưu niệm,…Đây là một nguồn thu ngoại tệ không nhỏ + Hiện nay, với việc mở cửa tích cực nền kinh tế, các công ty đa quốc gia vào Việt Nam hoạt động rất nhiều, kéo theo đó là lực lượng lao động Việt Nam làm việc cho công ty nước ngoài. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ. + Tiếp đó phải kể đến số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác. +Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền từ các tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. +Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp cũng tăng mạnh trong thời gian gần đây +Xuất khẩu là một lĩnh vực then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó chúng ta thu được nguồn ngoại tệ rất lớn từ hoạt động này +Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý. Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng. 4/Do lo ngại rủi ro tỷ giá Trong hơn 30 tỷ USD nhập khẩu hàng năm, lượng hàng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Do khi mua hàng từ nước ngoài phải trả bằng ngoại tệ, nên khi bán, mặc dù có thể trả bằng tiền đồng, nhưng giá vẫn được yết bằng USD để tránh rủi ro tỷ giá. Hiện nay , các công ty có xu hướng niêm yết giá bằng đồng USD(nhất là các công ty kinh doanh hàng nhập khẩu) khi bán các sản phẩm của mình. Nguyên nhân cơ bản là để tránh rủi ro tỷ giá vì công ty khó có thể và cũng không muốn phải thay đổi giá bán liên tục theo sự thay đổi tỷ giá. Chính những điều này đã tạo ra tâm lý cho rằng việc mua bán được thực hiện bằng USD chứ không phải tiền đồng 5/Nguyên nhân khác _ Các tổ chức giáo dục quốc tế mở trung tâm đào tạo tại Việt Nam cũng thu học phí bằng ngoại tệ ( Riêng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có rất nhiều trung tâm giáo dục quốc tế như ILA , ACET, APOLO, … các cở sở trường nước ngoài như RMIT,…) _Tâm lý người dân thích dùng USD trong giao tiếp hằng ngày , nhất là sử dụng USD với chức năng thước đo giá trị. _ Chúng ta cũng đã biết, lượng tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) ngày càng tăng nhất là về lượng tuyệt đối. Với một lượng vốn ngoại tệ lớn như vậy thì các ngân hàng có 2 cách sử dụng i) gửi ở các ngân hàng nước ngoài có lãi suất cao hơn để hưởng mức chênh lệch hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế. ii) cho các doanh nghiệp trong nước vay Cách thứ nhất đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn vốn lớn tuy nhiên hiệu quả mang lại không cao do giá USD trên thị trường thế giới biến đổi thất thường, ngân hàng dễ gặp phải thua lỗ. Do đó các ngân hàng thường dùng vốn vào cách thứ 2. Đến đây xuất hiện một vấn đề đó là, việc ngân hàng cho doanh nghiệp trong nước vay bằng USD dẫn đến các giao dịch, thanh toán bằng USD gia tăng trên các loại thị trường, điều này càng đẩy nhanh quá trình đôla hóa. CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA I/TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC Mặc dù không quốc gia nào muốn một đồng tiền nước khác chi phối nền kinh tế của mình nhưng “đôla hóa”, dưới một góc độ nào đó, cũng có những tác động tích cực nhất định của nó. 1/ Đối với lạm phát Đôla hóa làm giảm áp lực lạm phát và sự bất ổn kinh tế khi nền kinh tế rơi vào tình trạng này. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức Bên cạnh đó, USD là đồng tiền đáng tin cậy nhất thế giới. Bất kỳ nước nào chấp nhận đô la hóa cũng sẽ chấp nhận chính sách tiền tệ của FED ( Cục dự trữ liên bang Mỹ). Nhờ đó, sẽ giảm thiểu các rủi ro về khả năng mất giá tiền tệ. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. 2/ Thêm cơ hội đầu tư có lợi: Một lượng ngoại tệ lớn được gửi vào các Ngân hàng sẽ tạo thành nguồn vốn lớn để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế, hạn chế việc đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của Ngân hàng gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các ngân hàng trong nước đem gửi ở nước ngoài. Người dân cũng sẽ được hưởng từ lãi suất hơn là cất giữ trong nhà và các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ. 3/ Mở rộng hoạt đông ngân hàng Với đô la hóa, các ngân hàng có một lượng ngoại tệ lớn sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động của mình, nhất là hoạt động đối ngoại. Giao dịch của các ngân hàng sẽ không chỉ giới hạn trong nước mà dễ dàng thực hiện hơn với các ngân hàng nước ngoài, từ đó ngân hàng có thể mở rộng phạm vi hoạt đông trong lĩnh vực như bao thanh toán, …. 4/Tăng khả năng hội nhập quốc tế: Sự tồn tại các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước sẽ tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực, thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế. Đô la hóa giúp hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Tạo lợi thế tương đối đáng kể trong cạnh tranh. 5/Thúc đẩy thương mại và đầu tư Với nền kinh tế đô la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ gặp ít rủi ro. Đô la hóa có thể là yếu tố thu hút khách du lịch bởi việc mua bán và trao đổi ngoại tệ dễ dàng. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. II/TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC Dù cho có những tác động tích cực như trên nhưng hầu hết các quốc gia đều muốn giảm mức độ đôla hóa. Có thể nói đây là một thực trạng không mong muốn của các quốc gia vì thực tế những tác động tiêu cực mà nó mang lại là không nhỏ. 1/Đối với việc điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ: Một nền kinh tế bị đô la hóa cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô la, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu. Ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp. Do đó, đô la hóa sẽ ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Với một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn thì việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế. Cụ thể, đôla hóa làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ như sau: +Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và không kịp thời. +Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau. Nước thực hiện đô la hóa sẽ đánh mất ưu quyền tiền tệ của mình. Về cơ bản, ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ phát hành tiền. Đây là một hoạt động kinh tế rất có lãi vì chi phì in tiền, phát hành tiền thấp hơn rất nhiều so với giá trị hàng hóa mà giấy bạc phát hành thu mua được. Chính phủ Mỹ thu được 25 tỉ USD mỗi năm từ ưu quyền tiền tệ. Và khi người dân các nước khác giữ tờ đô la trong tay, họ đang góp phần làm giàu cho Bộ tài chính Mỹ. Nhà nước không những mất nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ mà còn thất thu về thuế. Về dài hạn, “đô-la hoá” có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với các nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Trung ương đã bị mất. Mặc dù, Ngân hàng Trung ương các nước này có thể đề nghị FED hỗ trợ tài chính khẩn cấp nhưng trong lịch sử tiền tệ thế giới, FED chưa hề có sự giúp đỡ hệ thống ngân hàng của nước thực hiện đô la hóa chính thức khi họ gặp cơn nguy khốn. 2/Đối với hoạt động kinh tế xã hội Bên cạnh việc làm mất chủ quyền về tiền tệ, “đô-la hoá” còn làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ sẽ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. “Đô-la hoá” làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Khi ngân hàng có nhiều đôla sẽ tiến hành cho doanh nghiệp vay bằng đôla .Các doanh nghiệp này sẽ phải đối mặt với rủi ro lớn bởi nó hoạt động bằng VND nhưng trả vốn và lãi ngân hàng bằng USD Trong một số hoạt động mua bán có giá trị không lớn lắm, người bán có thể lợi dụng sự mập mờ khi chuyển đổi từ nội tệ sang đôla để trục lợi và tất nhiên người chịu thiệt là người dân đi mua hàng. Ngoài ra, còn có tình trạng người bán qui đổi tiền theo mức tỷ giá thị trường tự do, thậm chí không thống nhất , gây bất ổn thị trường. Niêm yết giá sản phẩm bằng USD. Điều này đồng nghĩa với việc, khách hàng sẽ chịu thiệt nếu giá đồng tiền này có sự biến động. Nếu giá đồng đôla tăng nhanh thì chi phí khách hàng phải bỏ ra lớn hơn rất nhiều. 3/ Phản ánh sai lệch cung cầu ngoại tệ Đô la hóa chính là nguyên nhân khiến cho tỷ giá không phản ánh chính xác cung cầu ngoại tệ và hoạt động đầu cơ ngoại tệ hết sức rủi ro. Trong những thời điểm cung cầu ngoại tệ trên thị trường mất cân bằng như một vài thời điểm trong thời gian vừa qua, tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại của thị trường ngoại tệ. Bởi đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ. Thậm chí, đô la hoá đã làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi USD biến động bất thường. CHƯƠNG 4 BIỆN PHÁP GIẢM MỨC ĐỘ ĐÔLA HÓA Chúng ta cần xác định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn mà nên duy trì ở một mức độ hợp lý và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của đô la hóa trên cơ sở có kiểm soát, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực. Tình trạng đô la hóa hiện nay của Việt Nam đang tăng lên, nhưng chưa đến mức trầm trọng. Với tỷ lệ này, mức độ "đô la hoá" nền kinh tế ở nước ta vẫn ở mức trung bình.Tuy nhiên nguy cơ nền kinh tế bị đôla hóa ở mức độ cao sẽ nhanh chóng diễn ra nếu không có những biện pháp kịp thời. Chúng ta có thể đưa ra một số biện pháp sau. 1/ Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ số vốn ngoại tệ hiện có trong dân bằng các biện pháp: _Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân. _ Mở rộng dự án đầu tư của chính phủ, khuyến khích đầu tư của các thành phần kinh tế. 2/ Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ _Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế. _ Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EUR, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn. _Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các đối tượng trong nước khác vay các ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ. _

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐô la hóa- Hiện trạng và giải pháp khắc phục trong điều kiện Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan