Tiểu luận Giá tri và hạn chế của các nhà triết học duy vật Hy lạp cổ đạ

Mục lục

Lời mở đầu 1

Mục lục 2

I. đặt vấn đề 3

II. giá tri và hạn chế của các nhà triết học duy vật hy lạp cổ đại 3

1. hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học hy lạp cổ đại 3

a. hoàn cảnh ra đời 3

b. đặc điểm 5

2. các nhà triết học duy vật hy lạp cổ đại 6

a. trường phái Milê 6

b. Hêraclit 9

c. Thuyết nguyên tử 13

d. Arixtốt 19

III. Kết luận 26

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4222 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giá tri và hạn chế của các nhà triết học duy vật Hy lạp cổ đạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cha truyền cho quyền cai trị theo cha truyền con nối. Nhưng ông là người say mê ngiên cứu khoa học nên đã nhường quyền cai trị kế ngiệp cho em mình . Các quan niệm : Các quan niệm về bản thể luận : ở thời cổ đại hylạp , người ta quan niệm triết học nghĩa là “yêu mến sự thông thái” và những nhà triết học là những nhà thông thái hiểu biết nhiều , hêraclit lại coi phương châm nghiên cứu của mình là không dừng lại ở sự thông thái , hiểu biết nhiều , mà quan trọng là phải biết được cái “logos” tức bản chất quy luật của sự vật. Theo đánh giá của các nhà kinh điển mác-lênin , hêraclit là người sáng lập ra phép biện chứng , hơn nữa , ông còn là người xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật . Cũng như các nhà triết học tiền bối Talet và Anaximen, Hêraclit đã đứng trên lậ trường duy vật cổ đại đẻ giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể . song , ông lại khác với họ ở chỗ cho rằng , dạng vật chất đầu tiên bản nguyên của thế giới là lửa. Lửa là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật , hiện tượng tự nhiên. ông lấy lửa đẻ giải thích mọi hiện tượng tự nhiên : “tất cả đèu trao đổi với lửa , và lửa trao đổi với tất cả như vàng troa đổi với hàng hoá và hàng hoá trao đổi với vàng” . theo ông , các vật chất đều phát sinh từ lửa . dưới tác động của các dạng lửa , đất trở thành nước, nước trở thành không khí ... và ngược lại. Tuỳ theo độ lửa mà mọi vật có thể chuyển hoá thành các dạng khác nhau theo hai chiều :lửa- đát (thẻ rắn)- nước (thể lỏng) – không khí (thể hơi) là con đường đi lên ; theo hướng ngược lại , là chuyển hoá đi xuống . Hêraclit cho rằng , vũ trụ không do một lực lượng xiêu nhiên nào tạo ra mà nó “mãi mãi đã, đang và sẽ là bgọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và tàn lụi”. Như vậy lửa theo quan niệm của hêraclit , không phải mang nghĩa thông thường , mà là lửa vũ trụ , sản sinh ra không chỉ các sự vật mà cả những hiện tượng tinh thần , kể cả linh hồn con người. Phép biện chứng của hêraclit chưa được trình bày dưới dạng hệ thống một các luận điểm như sau này , nhưng hầu hết cá luận điểm cốt lõi của phép biện chứng của ông đã được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca triết lý. Các tư tưởng của ông : Một là, quan niệm về vấn đè vận động vĩnh viễn của vạt chất. Theo ông , khôngcó sự vật nào của thế giới là đứng yên tuyệt đối , mà trái lại , tất cả đèu trong trạng thái vận động và chuyển hoá dẫn đến cái khác , và ngược lại. Ông nói “nước sinh ra từ cái chết của đát , không khí sinh ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí và ngược lại” ; “chúng ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”. “ngay cả mặt trời cũng mõi ngày một mới”. Hêghen nhận xét “Khi nói rằng mọi cái đang trôi đi, Hêraclit coi sinh thành là phạm trù của mọi sự tồn tại”. Theo quan điểm của hêraclit, lửa chính là gốc của mọi sự thay đổi . tất cả các dạng khác của vận đọng chỉ là trạng thái vậm động của lửa mà thôi. như vậy, hêraclit đã nêu khá rõ nét về tính thống nhất của vũ trụ : vũ trụ là một ngọn lửa duy nhất. Hai là , Hêraclit đã nêu nên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mặt đối lập trong mọi sự vật , hiện tượng. điều đó thể hiện trong phỏng đoán của ông về vai trò của các mặt đối lập trong sự vận động phổ biến của tự nhiên , về “sự trao đổi của các mặt đối lập” ; về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập. ông cho rằng : “cùng một cái trong chúng ta – sống và chết , thức và ngủ , trẻ và già . và rằng cái này mà biến đổi là cái kia , và ngược lại cái kia mà biến đổi là cái này “cái lạnh nóng lên , cái nóng lạnh đi ; cái ướt khô đi , cái khô ướt lại” ; “gắn bó với nhau : toàn bộ và không toàn bộ , hợp lại và phân cách , hoà hợp và không hoà hợp, và từ mọi sinh vật duy nhất , từ duy nhất sinh ra mọi vật”. “cái thù địch thống nhất lại, từ những điểm phân cách xuất hiện cái đẹp nhất , và mọi sinh vật sinh ra qua đấu tranh”. “ bệnh tật làm cho sức khoẻ quý hơn , cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn , cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn , mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ chịu hơn”. “một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là xấu nếu đem so sánh với con người”. Qua các đoạn trích trên đây , ta có thể thấy Hêraclit đã phỏng đoán về sự phân đôi của một thể thống nhất thành những mặt đối lập , bài trừ nhau , nhưng gắn liền với nhau ; về sự đấu tranh và thông nhất của các mặt đối lập ấy. ông viết “nước biển vừa sạch và lai vừa không sạch” và “tất cả là thống nhất : cái phân chia được và không phân chia được , cái được sinh ra và cái không được sinh ra , cái chết và cái không chết, cái toàn bộ và cái không toàn bộ cái quy tụ và cái phân tán , cái động và cái bất động” ở thời cổ đại , xét trong hệ thống triết học khác không có tư tưởng biện chứng sâu sắc như vậy , dưới con mắt trực quan ngươid ta không thể hiểu được tại sao “cái một” và “cái nhiều” lại thống nhát, cái này vừa là nó lại không phải là nó , cùng một vật vừa không tốt lại vừa tốt , vừa đẹp lại không đẹp , nghĩa là tất cả đều vừa tồn tại lại không tồn tại. Vì vậy nhiều người đương thời gọi triết học của Hêraclit là triết học “tối nghĩa”. Nhưng chính những tư tưởng biện chứng sơ khai của Hêraclit này đã được các nhà biện chứng cổ điển đức kế thừa , và các nhà sáng lập triết học Macxit đáng giá cao. Ba là , theo Hêraclit sự vân động không ngừng của thế giới là do quy luật khác quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật tự khác quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là lời nói, suy nghĩ , học thuyết, từ ngữ của con người ; được hiểu như là chuẩn mực của mọi hành động, suy nghĩ, tu tưởng của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khác quan. Người nào càng tiếp cận với logos khác quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Ngoài vấn đề bản thể luận ông còn nêu lên vấn đề lý luận nhận thức và vấn đề nhân bản học : Lý luận nhận thức: lý luận nhận thức của Hêraclit tuy có tính chất duy vật và biện chứng sơ khai nhưng về cơ bản là đúng đắn: Trong lý luận nhận thức , vấn đề quan trọng nhất trước tiên là quan niệm như thế nào (duy vật hay duy tâm) về cảm giác. Bởi vì cảm giác là “cửa ngõ” của nhận thức (Lênin).vì vậy ta sẽ xem xét quan niệm của Hêraclit về “cảm giác”. Hêraclit cho rằng , nhận thức bắt đầu từ cảm giác , không có cảm giác thì không có bất cứ nhận thức nào. ông nói “ mắt, tai là người thầy tốt nhất , nhưng mắt là nhân chứng nhính xác hơn tai”. Coi trọng nhận thức cảm tính nhưng ông không tuyệt đối hoá giai đoạn này. ông viết “thị giác thường bị lừa bởi tự nhiên thích giấu mình” , nên không đẽ dàng nhận thức được. Nhiệm vụ của nhạn thức là phải đạt tới cái “Logos” của sự vật , nghĩa là phải chỉ ra được cái bảm chất, quy luật của sự vật. Hêraclit càn nêu nên tính tương đối của nhận thức , tuỳ theo họ và điều kiện mà thiện - ác, xấu – tốt , lợi – hại .. chuyển hoá cho nhau. Nhân bản học : Hêraclit cho rằng , linh hồn là vật chất là một trạng thái của lửa. Quan niệm này dưới ánh sáng của khao học hiện đại , rõ ràng đã không còn đúng. Nhưng nó đã có giá trị nhất định vào thời đó. Mặt khác, do trong con người không chỉ có lửa mà còn có cả những chỗ ẩm ướt, vì vậy sẽ xuất hiện người tốt người xấu. Linh hồn con người là sự thống nhất của lửa và ẩm ướt. ở người nào yếu tố lửa càng nhiều bao nhiêu thì anh ta càng tốt bấy nhiêu, vì linh hồn anh ta khô ráo. và chính yếu tố lửa trong tâm hồn con người là “Logos” của nó. Nhưng phần đông mọi người chủ yếu theo suy nghĩ vầ quan niệm riêng của mình mà chưa tuân theo “Logos” do vậy mà họ là nhẽng người tầm thường. Hạnh phúc không phải là sự hưởng lác thuần tuý về thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ , nói và hành động tuân theo thế giới tự nhiên. ở đây nhà bác học đã có quan niẹm đúng đắn và sâu sắc. lênin đã đánh giá cao những quan niệm đó của Hêraclit cho rằng chúng đã thể hiện một trong những điểm cơ bản của phép biện chứng. Giá trị: Hêraclit đã đưa triết học duyvật cổ đại tiến len một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông sau này đã nhà triết học cận đại hiện đại kế thừa. Mỗi nhà triết học từ lập trường triết ọc của mình đã tiếp cận và đánh giá khác nhau về triết học Hêraclit. Ông là đại biểu xuất xắc của phép biện chứng hy lạp cổ đại. Ăgghen viết : “quan niệm về thề giới một cách nguyên thuỷ , ngây thơ , nhưng căn bản là đúng là quan niệm của các nhà triết học thời cổ , và Hêraclit là người đầu tiên diễn đạt quan niệm ấy : mọi vật đều luôn luôn tồn tại nhưng cũng đồmg thời không tồn tại , vì mọi vật đều “trôi đi”, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật luôn luôn trong quá trình xuất hiện và biến đi”. Khi ông cho rằng linh hồn con người là một trạng thái của lửa, tuy quan niệm này dưới ánh sáng của khoa học hiện đại, rã ràng là sai lầm,nhưng giá trị của quan niệm này là ở chỗ : ông đã đi tìm bản chất của tinh thần không phải là ở ngoài vật chất mà chính là ở trong thế giới vật chất ; giá trị ấy có tính định hướng cho việc tìm bản chất đích thực của đời sống tinh thần . Hạn chế : Quan niệm của ông không thể tránh khỏi những hạn chế của những nhà triết học thời trước đó là sự ngây thơ, chất phác, cảm tính trong những quan niệm của mình. Ông còn có những sai lầm về mặt chính trị. Đó là tính chất phản động , thù địch với nhân đân , với thường dân , đem một số người mà ông gọi là “ưu tú”đối lập với quần chúng nhân dân ; và ông chủ trương phải dùng chính quyền để dập tắt nhanh chóng phong trào dân chủ. Thuyết nguyên tử của Lơxíp, Đêmôcrít, Epiquya. Lơxíp (500-440 tr.CN): Là người đầu tiên ở hy lạp cổ đại nêu len học thuyết nguyên tử. Các tác phẩm trình bày học thuyết cảu ông không được lưu giữ , người ta biết đến qua người học trò Đêmôcrit hoặc những trích dẫn ở các tác phẩm của các nhà triết học khác. Các quan niệm: ông tiếp thu quan điểm của Empecơlơ về đa khởi nguyên của vật chất , nhưng ông cho rằng khởi nguyên của vật chất không phải là 4 căn nguyên mà là vô số nguyên tử. Lơxíp cho rằng , mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức : nó vô cùng bé , không thể thẩm thấu được , không có chất lượng. Các nguyên tử chỉ khác nhau về kích thước và hình thức, sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có những hình thức sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Tán thành quan niệm về tồn tại của Pácmênít nheng khác với Pácmênít ở chỗ, ông không phủ nhận cái không- tồn tại. theo ông , cái không -tồn tại chính là khoảng chân không –“không gian rỗng” nhờ có không gian rỗng này mà mà các nguyên tử và các vật thể có thể vận động, kết hợp và phân tán. ông hiểu sự vận động là sự thay đổi vị trí trong không gian. Lơxíp đã đè cập đén tính nhân quả tất yếu trên quan điểm luận duy vật, chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm. ông khẳng định: “không mọt sự vật nào phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều phát sinh trên một căn cứ nào đấy, và do tính tất nhiên”. Giá trị : ông là người đầu tiên nêu len học thuyết nguyên tử , đã đua triết học hy lạp cổ đại lên một tầm cao mới. Mà giá trị của học thuyết này vẫn còn đén ngày nay. Hạn chế : Tuy học thuyết của ông là một tiên đoán tuyệt vời, nhưng ông cũng không thể tránh khỏi những hạn chế như các nhà triết học thời trước, do trình độ khoa học thời này còn thấp, đó là triết học của ông mang nặng tính chất phác, thô sơ. Đêmôcrit(460-370 tr.CN): Là học trò giỏi của Lơxíp. ông đã đén Aicập, Babilon, Ânđộ tìm hiểu và đã tiếp xúc với những tri thức triết học xuất hiện ở phương đông cổ đại. ông hiểu xâu rộng nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, mỹ học, ngôn ngữ học, kỹ thuật, âm nhạc. những nhà nghiên cứu về Đêmôrít cho rằng, ông đã viết được 70 tác phẩm về các lĩnh vực nói trên. theo đánh giá của Mác và Ăngghẻntong tác phẩm “Hệ tư tưởng đức”: Đêmôcrit là một bộ óc bách khoa đầu tiên trong số những người hy lạp. Các quan điểm: Quan điểm về bản chất thế giới : Đêmôcrít đồng quan điểm với Lơxíp - người thầy của mình và phát triển học thuyết nguyên tử lên một trình độ mới. ông cho rằng, nguyên tử và khoảng không là cơ sở cấu tạo nên mọi vật ; nguyên tử là hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy , không phân chia được , không mùi vị , không âm thanh , không màu sắc không có sự khác nhau về chất mà chỉ có sự khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Ông cho rằng , mỗi nguyên tử có một hình thức nhất định, nguyên tử không những vô hạn về số lượng mà còn vô hạn về hình thức; mọi sự vật đều được cấu thành từ các nguyên tử, sự kết hợp đó không phải lad tuỳ tiện, ngẫu nhiên mà kết hợp theo quy luật trật tự, cũng như bảg chữ cái , từ đó thực hiện sự kết hợp theo thứ tự nhất định tạo thành từ. Nguyên tử cũng khác nhau về tư thế, giống như tư thế của các chữ cái.sự vật khác nhau là do sự vật được cấu tạo từ những hình thức khác nhau;sự sắp xếp theo trật tự khác nhau;và được xoay đặt theo những tư thế khác nhau. Mọi sự biến đổi của sinh vật thực chất là sự bién đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng, còn bản thân nguuyên tử – hạt vật chất nhỏ nhất thì không thay đổi gì cả. ở đây một mặt , Đêmôcrit tán thành lý thuyết “tồn tại” duy nhất bất biến của Patmênit, coi nguyên tử là bất biến ; mặt khác ông kế thừa quan điểm của Hêraclit cho rằng mọi sự vật không ngừng biếm đổi . Nếu như các nhà triết học phái Elê phủ nhận sự tồn tại thực của cái không - tồn tại, thì Đêmôcrit và các nhà nguyên tử luận khẳng định sự tồn tại của cái không – tồn tại. theo nhận xét của Arixtôt thậm chí còn cho rằng “cái tồn tại có thực không hơn gì cái không tồn tại , bởi vì sự vật tồn tại không mảy may hơn gì khoảng khônng và cả hai đều có nguyên nhân vật chất”. Cái không – tồn tại chính là khoảng không trống rỗng, nó không chịu ảnh hưởng gì các sựvật (tức cái tồn tại) trong nó cả. Giữa tồn tại và không tồn tại có những đặc tính khác nhau. Các nguyên tử thì đậm đặc hoàn toàn, còn khoảng không lại hoàn toàn trống rỗng. Các nguyên tử thì rất đa dạng trong khi khoảng không lại thuần nhất. Các nguyên tử bao giờ cũng có kích thước hình dạng nhất định (Đemôcrit chưa đạt đến quan niệm nguyên tử có khối lượng) nhưng khoảng không lại vô tận và không có hình dạng nào cả. ông đã nêu ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tư tưởng biện chứng tự phát và có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Theo ông, dẹ xuất hiện cảu vô số những thế hình thành vũ trụ và tất cả những biến đổi xảy ra trong tự nhiên đèu là sự kết hợp khác nhau (tật hợp , phân tán ) cuả những nguyên tử vận động trong chân không và tuân theo tính tất nhiên của tự nhiên. trong không gian vô tận của vũ trụ, những nguyên tử vận động, rung chuyển về mọi phía, xô đi đảy lại lẫn nhau và làm thành những cơn lốc nguyên tử, đẩy các nguyên tử nặng to vào tâm, các nguyên tử nhẹ và nhỏ hơn ra vùng ngoại biên, nhờ đó các hành tinh và cả trái đất được hình thành. Sự kết hợp trong cơn lốc đó như làn sóng biển đánh vào bờ, làm cho những viên đá có hình thù cùng loại (dài , tròn) dồn thành từng đám từng lớp trên bãi biển. Do các vận động đó các nguyên tử có cùng một kích thước , cùng một hình thức kết hợp với nhau tạo thành : lửa, đát, nước, không khí. Trong thế giới mọi sự vật đều luôn luôn quy tụ về trung tâm do trọng lượng của chúng. Đemôcrit khẳng định : vũ trụ vô tận và vĩnh viễn, có vô số thề giới vĩnh viễn phát sinh phát triển và bị tiêu diệt. Quan niệm về sự vận động : Quan điểm của Đemôcrit về vận động, gắn liền với vật chất là một phoán đoán thiên tài có giá trị đặc biệ. Theo ông vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử ở bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó, còn khoảng trống chân không là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên, Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của sự vận động. Quan điểm về tất nhiên và ngẫu nhiên : Dưa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrit đã đi tới quan điểm quyết định luận. đó là sự nhận thức sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên và tính khác quan của các hiện tượng tự nhiên. đay là quan điểm có giá trị của ông đóng góp cho nền triết học hy lạp cổ đại. theo Arixtôt: “Đêmôcrit”sau khi đã gạt bỏ [cái nguyên nhân] có tính mục đích, bèn đem tất cả những mà tự nhiên sử dụng về tính tất yếu. Song, ông lại phủ nhận cái ngẫu nhiên, cho rằng, ngẫu nhiên là vô lý, do sự không biết của con người sinh ra ; trên thực tế về cơ bản chỉ tồ tại cái tất nhiên; trong cuộc sống nếu chỉ dựa vào cái ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm lười biếng. Nhân bản học: ông phê phán quan niệm cho rằng, sự sống do thần thánh sinh ra. Theo ông, sự sống là kết quả của quá trình vận động của bản thân tự nhiên, được phát sunh từ những vật thể ẩm ướt, dưới tác động của nhiệt độ. Nước và bùn là hai môi trường nảy sinh sự sống, sự ssống xuất hiện dưới nước sau ó len cạn. trải qua một quá trình lau dài từ những sinh vật không tay, không chân, đến những sinh vật 4 chân , hai chân, có tay, có mắt rồi xuất hiện con người. Sinh vật khác với con người ở chỗ : sinhvật không có linh hồn giống như con người. Trong cơ thể con người có nhiều nhiệt lượng hơn và các chất cấu tạo thành nó sạch sẽ hơn so với động vật. Do sự hạn chế của khoa học thời bấy giờ, Đêmôcrit thừa nhận rằng trong con người có một phần bản chất thiên thần. ông định nghĩa con người là một động vật nhưng về bản tính có khả năng học được bất cứ cái gì, có chân có tay, cảm giác và sự năng động của trí tuệ. Theo ông, linh hồn được cấu tạo từ những nguyên tử hìh cầu, giống như nguyen tử của lửa, và vận động với tốc độ lớn. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho toàn bộ cơ thể hưng phấn và vận động. Song ông lại coi linh hồn khôn gphải là một hiện tượng tinh thần, ý thức mà là một hiện tượng vật chất. ông bác bỏ quan niệm tôn giáo về linh hồn cho rằng linh hồn bất tử và cho rằng linh hồn có thể chết cùng với cái chết của con người. Nhận thức luận : Đêmôcrit cho rằng trên thực tế chỉ tồn tạ các sinh vật khác quan do nguyên tử tạo ra, còn tất cả những ccái như mùi vị, màu sắc, âm thanh.. chỉ tồn tại trong cảm nhận của con người, là kết quả tác động của các nguyên tử lên các giác quan của chúng ta. Khác với các nhà triết học trước đây phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, ông chia nhận thức của con người thành hai dạng : nhận thức mờ tối là dạng nhận thức cảm tính, do các giác quan đem lại ; và dạng nhận thức chân lý thông qua những phoán đoán lôgic, đó là dạng nhận thức được bản chất của sự vật. Hai dạng nhận thức trên có liên hệ chặt chẽ với nhau và đều có vai trò quan trọng, nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn. đêmôcrit gọi dạng nhận thức mờ tối là nhận thức theo “dư luận chung”; vì theo ông những cảm giác như mùi vị, màu sắc, âm thanh là những cảm giác phổ biến mà mọi người đều cảm nhận được một cách dễ dàng khi nhận thức. đó là nhận thức chân thực nhưng còn mờ tối vì chưa nhận thức được cái bên trong, cái sâu kín cảu sự vật. chỉ có dạng nhận thức chân lý mới có khả năng nhậm thức được bản chất của sự vật. Vì thế , con người không thể dừng lại ở nhận thức mờ tôi mà phải đi sâu hơn đẻ nhận thức được cái bản chất sự vật, đó là chức năng của nhận thức chân lý. Trong lý luận nhận thức của mình, Đêmôcrit đã nêu ra khái niệm “hình tượng” hay còn gọi là “Iđôlơ”. mác đã giải thích “Iđôlơ” của Đêmôcrit là cái vỏ hình thức của vật thể bị tách khỏi vật thể, nhưng hình thức đó bắt nguồn từ chính vật thể rồi xâm nhập vào cảm giác và được ước lệ thành hình tượng khác thể. Iđôlơ đóng một vai rò quan trọng trong lý luận nhận thức của Đêmôcrit. Nhưng Iđôlơ hay “hình tượng” cảm tính là tiền đề, là tái hiện đẻ lý tính nhạn thức chân lý. Nhưng ông cho rằng, nhận thức chân lý là khó khăn vì “thực ra chúng ta khôn biết gì hết, vì rằng chân lý ở sâu kín”. Ngoài ra : ông đã đóng vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần. ông cho rằng, sở dĩ người ta có quan niệm sai lầm cho là có thần là vì con người bị ám ảnh bởi những hiện tượng khủng khiếp trong tự nhiên. theo ông, khi quan sát những hiện tượng tự nhiên như sấm, chớp, sao băng, nhật thực, nguyệt thực, con người không lý giải được nên sợ hãi, coi đó là tai hoạ do thần thánh gây ra. Những thần thánh tôn giáo hy lạp chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của nó; mặt trời mà tôn giáo đã thần thánh hoá, chỉ là một khối lửa, thần dớt (zeus) là sự nhân cách hoá mặt trời; thần Atêna là sự nhân cách hoá lý tính của con người. ông kiên quyết chống lại mọi điều bịa đặt về sáng thế của thần thánh. Quan niệm vô thần cảu ông có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm có ý nhĩa tiến bộ và có vai trò lịch sử to lớn. ông còn có đóng góp về lôgic học, đạo đức học, chính trị- xã hội. ông đã có công lao đặt nền móng cho lôgic học, với tác phẩm “bàn về lôgic học”, ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgic học như những định nghĩa khái niệm, phương pháp quy lạp, so sánh, giả thiết, trong đó phương pháp quy lạp chiếm vị trí trung tâm. Đêmôcrit cũng có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Về chính trị xã hội ông đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô, đấy tranh chống lại bọn chủ nô quý tộc bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Giá trị : Với những thành tựu rực rỡ của mình, Đêmôcrit đã đưa chủ nghĩa duy vật lên một đỉnh cao mới: Học thuyết nguyên tử của ông là một tien đoán thiên tài mà cho đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị, các nhà khoa học hiện đại đã chứng minh một số quan điểm của ông là đúng. Ngoài ra quan điểm về nguồn gốc vũ trụ cũng có một số giá trị nhất định. Tuy dưới ánh sáng của khoa học, thì quan niệm của Đêmôcrit là sai lầm; nhưng nó đã góp phần chống lại thế giới quan tôn giáo, duy tâm đang thống trị thời đó. Quan điểm về vận động của ông cũng là một phoán đoán có giá trị đặc biệt. Theo đó ông đã đi tìm nguồn gốc của sự vật động ở trong chính thế giới vật chất. đây là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit đã công nhận. Quan điểm quyết định luận cũng là một quan điểm của ông có giá trị đã đóng góp cho nền triết học hy lạp cổ đại. quan điểm này đã chống lại quan điểm mục đích luận, thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Về quan điểm nguồn gốc của con người cũng có giá trị nhất định. Nó cũng chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác với các nhà triết học trước, Đêmôcrit không phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyết đối hoá vai trò của lý tính. đây cũng là một quan điểm đúng đắn mà sau này các nhà triết học Macxit cũng công nhận. Ngoài ra, các quan niệm của ông còn có vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần, đó là những quan điểm về nguồn gốc, phủ nhận sự tồn tại của thần linh. Hạn chế : Tuy có nhiều thành tựu rực rỡ, nhưng triêt học của Đêmôcrit vẫn có nhiều hạn chế không thể tránh khỏi: Triết học của Đêmôcrit vẫn thể hiện tính chất thô sơ chất phác, thể hiện tư duy trực quan, cảm tính, thể hiện trong các quan niệm về nguyên tử, linh hồn con người, về nguồn gốc của vũ trụ, về nguồn gốc bản chất của con người, thần thánh,... Trong quan niệm về sự vận động của vật chất, tuy đã có những giá trị đạt được nhưng ông chưa thể giải thích được nguồn gốc của sự vận động. Khi nói về cai tất yếu và cái ngẫu nhiên, ông đã phủ nhận cái ngẫu nhiên nho rằng cái ngẫu nhiên là không tồn tại. đây là một quan điểm sai lầm vì rằng cái ngẫu nhiên vẫn tồn tại bên cạnh cái tất nhiên. Epiquya (341-297 tr.CN): Triết học của Eiquya gồm ba bộ phận : vật lý học, lôgic học và đạo đức học. ông kiên quyết bác bỏ thuyết duy tâm và lý luận thần học, bảo vè chủ nghĩa duy vật và học thuyết vô thần của Đêmôcrit. Không những tiếp tục thuyết nguyên tử của Đêmôcrit, Epiquya còn có đógn góp mới: ông cho rằng, các nguyên tử còn khác nhau về trọng lượng, do đó chúng vận động theo chiều thẳng đéng từ trên xuống, giống như sự rơi tự do của các vật thể, như hạt mưa từ trên trời xuống. Quá trình rơi, các hạt va vào nhau, quyện vào nhau hoặc tách xa nhau. Từ đó ông kết luận rằng các nguyên tử vận động theo quy luật nội tại của chúng nhưng nó bao hàm các yếu tố ngẫu nhiên do sự va chạm vào nhau của ấc hạt trên đường rơi xuống. Mỗi sinh vật không phải đơn thuần là tổng số các nguyên tử , mà là một chỉnh thể có những đặc tính nhất định. Arixtốt(384-332 tr.CN): Arixtốt là nhà triết học lớn nhất, bộ óc bách khoa của triết học hy lạp cổ đại. ông sinh ở Stagirơ, năm 17 tuổi đến Aten học ở viện hàn lâm của Platôn, sau đó trở thành thầy giáo của viện. ông rất yêu người thầy của mình Platôn, nhưng cái mà ông yêu nhất chính là chân lý. Vì thế ông đã bác bỏ nhiều quan điểm của Platôn. su khi Platôn qua đời ông đã dời bỏ viện hàn lâm. ông đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực: lôgic học, triết học, vật lý học, khoa học xã hội.. Các quan điểm: Quan điểm về đối tượng của triết học : Arixtot coi giới tự nhiên với những sự vật vô cùng đa dạng là đối tượng của vật lý học (Phisica – thuyết về giới tự nhiên) đây được coi là “triết học thứ hai”. Nó nghiên cứu dạng cụ thể của thế giới vật chất. để khám phá bản chất đích thực của tồn tại nói chung , lý giải cụ thể các vấn đề nguồn gốc, bản chất của thế giới.. thì cần có triết học thứ nhất tức siêu hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12137.doc
Tài liệu liên quan