Tiểu luận Giải pháp giải quyết và tạo việc làm ở nông thôn

MỤC LỤC

trang

 

Lời mở đầu 1

I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN.

1.Một số khái niệm cơ bản: 2

2.Một số nhận xét khái quát chung: 2

3.Thực trạng thị trường lao động nông thôn 6

4.Việc làm ở nông thôn - những vấn đề đặt ra. 7

5.Nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thất nghiệp: 7

II. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VÀ TẠO VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN 9

1.Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng

công nghiệp hoá- hiện đại hoá 9

2.Tiếp tục ban hành bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. 11

3.Giải pháp phân bố nguồn lao động 12

4. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động 16

5. Một số giải pháp khác 18

III.KẾT LUẬN 19

 

 

 

 

 

 

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12720 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giải pháp giải quyết và tạo việc làm ở nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung: Thực tiễn quá trình cải cách toàn diện nền kinh tế nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng đã và đang đặt ra những vấn đề xã hội nóng bỏng, nhất là về lao động-việc làm. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để thúc đẩy quá trình phân công và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động ở nông thôn, nhưng kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Vì vậy đánh giá đúng thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân làm gia tăng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn, đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trên là vấn đề rất cấp bách. Nông thôn nước ta là khu vực đông dân nhất, chiếm 80% dân số và 76.88% lực lượng lao động xã hội. Hàng năm, khu vực này được bổ sung thêm khoảng 67 vạn lao động. Đây là lực lượng lao động rất dồi dào phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Thành tựu nổi bật tạo ra bước ngoặt trong phân công sử dụng lao động ở nông thôn những năm qua là: Từng bước giải phóng tiềm năng lao động. Người lao động trở thành người chủ thực sự trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ. Bên cạnh đó, xuất hiện nhiều hình thức hợp tác tự nguyện, kinh doanh theo hướng tổng hợp, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp… Chính vì vậy, phân công lao động đã có những tiền đề đi vào chuyên môn hoá; cơ cấu kinh tế nông thôn từng bước dịch chuyển theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thu hút lực lượng lao động từ ngành nông nghiệp truyền thống sang hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn. Mặc dù vậy, lao động - việc làm ở nông thôn nước ta vẫn là vấn đề xã hôi lớn, chịu sự tác động của chính những điều kiện chủ quan và khách quan của nền kinh tế. Lực lượng lao động ở khu vực nông thôn phân bố rất không đều ở các ngành, các vùng(bảng 1) Sự dịch chuyển chậm chạp trong phân bố lực lượng lao động nông thôn không chỉ thể hiện ở từng ngành kinh tế mà còn rất đậm nét ở hầu khắp các vùng trên phạm vi cả nước, tập trung nhất ở 2 vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động giảm xuống còn 7.3% (năm 1997). Đây là lực cản lượng lao động nông thôn lớn nhất trong việc bố trí phân công và sử dụng. Mặc dù tỷ lệ có việc làm ở nông thôn lớn, nhưng tỷ lệ thất nghiệp thiếu việc làm ngày càng gia tăng. Bảng 1: Các vùng Tổng số Chia theo nhóm ngành kinh tế Nông,lâm, ngư nghiệp CN và XD Dịch vụ Số lượng % Số lượng % Số lượng % Nông thôn cả nước 27857460 21721150 77,98 1910205 6,85 4196105 15,17 Miền núi và tây nguyên 5500581 5087070 92,48 113630 2,07 299881 5,45 Đồng bằng sông Hồng 5723913 4397281 76,82 458802 8,02 867830 15,16 Khu IV 4021525 319453 82,54 249403 6,20 452669 11,26 Tây Nguyên 1104727 948637 87,33 25630 3,94 94760 8,73 Như vậy lao động thiếu việc làm ở nông thôn nước ta cũng rất phổ biến ở tất cả các vùng, miền trong cả nước. Nhưng ngay trong lực lượng lao động có việc làm thường xuyên ở nông thôn vẫn có những lao động mong muốn được làm thêm để có thu nhập, bởi vì giá trị ngày công lao động ở nông thôn còn ở mức quá thấp. Hơn nữa, số giờ làm việc thực tế của ngày làm việc trong năm chưa cao. Năm 1997, tỷ lệ quỹ thời gian của lao động nông thôn đã sử dụng mới chiếm 72,11%, và như vậy còn khoảng 27,89% quỹ thời gian bị bỏ phí. Đây là con số thống kê chưa đầy đủ, trên thực tế con số này còn cao hơn. Thẩt nghiệp, thiếu việc làm, một bộ phận dân cư không có hoặc thu nhập bấp bênh sẽ trở nên nghèo đói. Đặc biệt, những đối tượng chính sách xã hội, những người ít vốn hoặc không có để đầu tư vào sản xuất, đời sống vô cùng chật vật. Vì vậy, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng giãn cách. Hiện nay, nước ta có tới 1715 xã nghèo. Trong đó có 1000 xã cực nghèo chiếm 2,4triệu hộ, tương đương 12triệu dân. Đây là một thách thức rất lớn đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn dẫn tới dòng di dân tự do ngày càng gia tăng. Họ di chuyển tới các thành phố lớn, vùng biên giới và các miền đất có tiềm năng canh tác, nhưng kinh tế chậm phát triển như: Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ… làm nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc nơi dân nhập cư tới đó là: Mật độ dân số gia tăng đột biến (cơ học) chẳng hạn từ 1976-1996, Đắc Lắc phải tiếp nhận khoảng 20 vạn dân di cư tự do tới, tại thời điểm hiện nay, Hà Nội có tới 23,44% lao động của thành phố là lao động ngoại tỉnh ( thành phố Hồ Chí Minh là 9,56%). Những địa phương có dân di cư tự do tới thường bị động trong các chương trình, kế hoạch đã định sẵn còn phải đầu tư để giải quyết những vấn đề nảy sinh trước mắt. Hiện nay 100% dân di cư đều mong muốn có đất canh tác nên họ bất chấp pháp luật, khai thác bừa bãi làm cạn kiệt tài nguyên rừng, biển và đất đai lâm nghiệp, huỷ hoại môi trường sinh thai. Trẻ em bị thất học, bệnh tật đe doạ. Đặc biệt đã xảy ra những cuộc xung đột giữa dân di cư với người bản địa. Vì vậy, đời sống của đại bộ phận dân nhập cư tự do không ổn định và rất khó khăn về kinh tế trong những năm đầu đến vùng đất mới. Để tồn tại, nhiều người trong số họ chấp nhận làm đủ việc từ buôn bán các chất ma tuý đến mang vác thuê hàng lậu qua biên giới…vv gây căng thẳng về kinh tế, trật tự an toàn xã hội. 3.Thực trạng thị trường lao động nông thôn 3.1.Cung lao động nông thôn: Dân số ở nông thôn nước ta hàng năm tăng với tốc độ vẫn khá cao, khoảng 2% (năm 2001- 2010) . Có khoảng 1triệu người bước vào độ tuổi lao động mỗi năm. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh trong khi cơ cấu lao động chuyển dịch chậm làm cho lao động nông thôn thiếu việc làm và thất nghiệp tăng nhanh. Trình độ chuyên môn của lao động nông thôn ở mức rất thấp, phần lớn chưa qua đào tạo. 3.2.Cầu lao động ở khu vực nông thôn: Khu vực nông thôn kinh tế chưa phát triển, tạo ra ít việc làm, chủ yếu là làm nông nghiệp, đất đai bị thu hẹp do đô thị hoá, sản xuất nông nghiệp cũng giảm dần nên lao động nông thôn thường tồn tại dưới hình thức thất nghiệp trá hình hoặc sử dụng không hết quỹ thời gian lao động trong nông nghiệp. Dịch vụ ở mức thấp do cuộc sống còn khó khăn, người dân ít quan tâm nên khó phát triển. 4.Việc làm ở nông thôn - những vấn đề đặt ra. Sự phân bố và sử dụng lao động ở nông thôn hiện nay đang làm gia tăng ít nhất ba nghịch lý sau: Nông nghiệp vẫn còn nhiều tiềm năng cần phải được khai thác (đất trống, đồi núi trọc, các nguồn nước từ ao, đầm, hồ, biển…) và thu hút lao động. Nhưng do thiếu các phương tiện và điều kiện căn bản, lợi thế so sánh về tài nguyên này đang trở thành một nguồn áp lực xã hội. Trong nông thôn sự thừa và thiếu lao động giả tạo đang là vấn đề nổi cộm. Thừa lao động giản đơn, thiếu lao động được đào tạo có kỹ năng nghề nghiệp cao, nhất là cho các lĩnh vực công nghiệp, chế biến xuất khẩu và các xí nghiệp công nghệ cao. Một lực lượng lao động đáng kể ở nông thôn, đặc biệt là phụ nữ đang phải làm việc rất vất vả và có nguy cơ thất nghiệp cao. 5.Nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thất nghiệp: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chậm chạp dẫn tới chưa giải quyết được một cách cơ bản và đồng bộ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn. Lực lượng lao động nông thôn vốn đã dư thừa, nay do tác động của cơ chế thị trường càng trở nên trầm trọng. Từ năm 1990-1997, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm 3,5%, bình quân mỗi năm giảm được 0,5%. Số hộ hoạt động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Bảng 2: Cả nước Miền núi trung du Đồng bằng trung du Khu VI cũ Tây nguyên Tổng số 100 100 100 100 100 Hộ nông nghiệp 80,6 91,2 92,2 75,6 77,9 Phi nông nghiệp 19,4 8,8 7,8 24,4 22,1 Quá trình đô thị hoá nhanh chong, những vùng ven đô phát triển rầm rộ các khu công nghiêp, khu chế xuất đã chiếm mất một phần đất nông nghiệp làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp, nông dân mất đất trở nên thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Mặt khác, do cơ cấu lại nông nghiêp và kinh tế nông thôn chưa nhận được sự hỗ trợ đúng mức về vốn, tín dụng, thuế, thị trường… Vì vậy, làm cho sự phục hồi các làng nghề truyền thống, hình thành và phát triển nghề mới để công nghiệp hoá nông thôn, mà đặc biệt là công nghiệp chế biến chậm và hạn chế phát triển. Do vậy, không thể có tác động mạnh và thu hút một bộ phận đáng kể lao động dư thừa ở nông thôn. Hơn nữa, họ hầu như không nhận được bất cứ sự đào tạo kỹ thuật hoặc ngành nghề nào. Họ rất ít có cơ hội để tìm việc làm mới, nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống. Ngoài ra lao động nông thôn vẫn chưa thích nghi với quan hệ cung cầu của cơ chế thị trường. Thị trường nông thôn còn mang tính tự phát, kém năng động và không theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và phân công lại lao động. II. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VÀ TẠO VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN 1.Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá: Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc gắn với công nghiệp chế biến và thị trường xuất khẩu nông sản. Muốn vậy, cần đổi mới quan điểm và nhận thức về vai trò và vị trí của mặt trận nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, phải gắn phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, ngư nghiệp với chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành này. Tăng đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu đầu tư dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân, bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức và kinh nghiệm làm ăn bằng cac ngành nghề nông nghiệp và dịch vụ. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Ưu tiên các vùng miền núi, vùng có nhiều trang trại, vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, cây ăn quả. Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiết thực và lâu dài. Trong quy hoạch cần quan tâm đến các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu, các nghành công nghiệp chế biến nông sản và những ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như điện, cơ khí, chế biến nông, lâm thuỷ sản, quy hoạch hệ thống trạm, trại nghiên cứu thực phẩm và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông dân. Thực hiện các biện pháp khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến nông. Thực hiện giải pháp kích cầu bằng các chính sách khoán sức dân ở nông thôn, trong đó bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp là việc nên làm. Trước mắt, năm 2000 Nhà nước cần miễn thuế sử dụng đất cho toàn bộ hộ nông dân ở tất cả các vùng có quy mô đất nông nghiệp bằng mức hạn điền của luật đất đai năm 1993. Mở rộng diện miễn giảm thuế cho các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản và thuỷ sản. Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này để tạo cầu cho lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn nông dân và gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến theo hướng tích cực hơn và hiệu quả hơn. Nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp kiểu mới, nhất là mô hình kinh tế trang trại, tổ hợp tác tự nguyện của các hộ, tổ hợp công nghiệp chế biến nông sản, liên doanh với nước ngoài về chế biến nông sản. Phát triển nông nghiệp theo hướng đa canh và chuyên canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, ngành nông nghiệp nước ta vẫn còn mang nặng tính độc canh cây lương thực mà chưa thật sự chú trọng vào phát triển các loại cây con khác có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, cần quy hoạch cụ thể từng vùng trọng điểm, hướng dẫn nông dân cải tạo vườn, và thuyết phục họ trồng các vùng cây mới như: cây ăn trái, hoa – cây cảnh… theo hướng sản xuất hàng hoá. Đồng thời nghiên cứu cải tiến giống mới một cách hoàn thiện trên cơ sở xem xét những lợi thế tiềm năng cho phép ở từng vùng, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp, mở rộng thị trường hàng hoá nông sản cả trong và ngoài nước. Phát triển công nghiệp nông thôn, hướng ngành này vào phục vụ sản xuất nông nghiệp là chính như: Sản xuất máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp, phát triển công nghiệp, chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng về đất đai, lao động, vùng nguyên liệu… như: công nghiệp mía đường, công nghiệp xi măng, công nghiệp hàng tiêu dùng,…Nên chăng hình thành những xí nghiệp công nghiệp vệ tinh sản xuất phụ tùng hoặc gia công cho các nhà máy lớn. Phát triển dịch vụ nông thôn, không chỉ chú trọng phát triển các dịch vụ truyền thống, như dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ hàng tiêu dùng mà cần đẩy mạnh phát triển các loại dịch vụ khác như dịch vụ việc làm, dịch vụ cho vay vốn… đồng thời nâng cao chất lượng các loại dịch vụ thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống nhân dân. 2.Tiếp tục ban hành bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tiếp tục ban hành, bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Đây là công việc rất quan trọng quyết định sự tăng, giảm chỗ làm việc trong từng thời kỳ. Có những chính sách lại tác động theo cả hai hướng trái ngược nhau: vừa tạo chỗ làm việc mới, vừa làm mất chỗ làm việc, như: chính sách khoa học – công nghệ, chính sách tín dụng, đầu tư. Vì vậy, cần thiết phải: Tổ chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá các yếu tố tác động tới việc tăng, giảm chỗ làm việc ở từng vùng cụ thể để hoạch định, bổ sung, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu giải quyết việc làm. Tổng kết, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quá trình chuyển đổi và tích tụ, tập trung ruộng đất, phân tích sự tác động của những hiện tượng kinh tế này tới vấn đề lao động - việc làm để từ đó có phương thức xử lý linh hoạt mền dẻo, định hướng cho quá trình này phát triển theo đúng quy luật khách quan. Ban hành bổ sung hoàn thiện chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết việc làm ở nông thôn, như: chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết việc làm ở nông thôn, như: Chính sách dịch vụ việc làm, chính sách cho vay vốn và hỗ trợ tài chính giải quyết việc làm. Đặc biệt, tạo ra những tiền đề tiến tới hình thành quỹ bảo hiểm việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn trên cơ sở Nhà nước và nhân dân cùng làm. Giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiên nay không chỉ là vấn đề kinh tế hay vấn đề xã hội đơn thuần mà là một quá trình tổng hợp và rất phức tạp. Vì vậy, cần phải giải quyết nó trên phạm vi rộng, bao gồm những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển nguồn nhân lực cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở nông thôn. 3.Giải pháp phân bố nguồn lao động Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và hoàn thành thực tế của nông thôn hiện nay, việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động trước hết phải hướng vào những ngành, những hoạt động quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, vào việc khai thác những nguồn lao động có chất lượng cao, lao động được đào tạo, ưu tiên lao động tại chỗ và chú ý tỷ suất sử dụng thời gian lao động trong những thời điểm nông nhàn. Những giải pháp chủ yếu có thể là: Thứ nhất, giảm thiểu lao động trong khu vực nông thôn: Số lao động trong độ tuổi lao động hiện nay khoảng 7triệu người( chiếm gần 50% tổng dân số trong vùng). Để duy trì mật độ dân số cũng như chỉ tiêu về diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu, số lượng lao động nông nghiệp cần được giữ ở mức ổn định khoảng 7-8 triệu người bằng các biện pháp: Giảm tỷ lệ sinh đẻ để từ đó giảm thiểu số lượng lao động trong vòng 15-20 năm sau. Di chuyển bớt lao động ra khỏi vùng bằng hai cách chủ yếu: di cư lao động đến những vung thiếu lao động đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng bớt số lao động trẻ ra làm việc tại các khu công nghiệp, đô thị. Để thực hiện việc rút bớt sức lao động theo cách này, trong những năm trước mắt, cần hết sức coi trọng giáo dục và đào tạo lao động trẻ. Thứ hai, tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực nông thôn. Tạo thêm nhiều việc làm trong chính nội bộ ngành nông nghiệp bằng các biện pháp: Thay đổi chuyển dịch cơ cấu cây trồng: Mặc dù là nước có ngành sản xuất nông nghiệp khá phát triển, nhưng về cơ bản vẫn là nông nghiệp thuần nông, cây lúa vẫn là chủ đạo trong cơ cấu cây trồng. Vì vậy, lao động nông thôn trong vốn đã dư thừa lại càng có nguy cơ dư thừa nhiều hơn khi việc canh tác lúa nước và những cây lương thực ngắn ngày như khoai lang, khoai tây, rau đậu càng ngày càng đòi hỏi ít lao động thủ công hơn; hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ sản xuất, trình độ cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tương đối hoàn chỉnh. Chính vì vậy, để phá thế thuần nông, độc canh, thực hiện đa dạng hoá nền nông nghiệp, tạo thêm việc làm vho lao động nhất là những lao động lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng không được đào tạo, việc chuyển đổi dù rất ít – cơ cấu cây trồng cũng là một giải pháp tốt. Thực hiện thâm canh, chuyên môn hoá nông sản hàng hoá mũi nhọn: Nước ta vốn có lực lượng lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm, thâm canh không phải là vấn đề quá mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh dư thừa lao động, ngành nghề tạm thời chưa phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng hạn chế… việc nâng cao trình độ thâm canh, thực hiện chuyên môn hoá cao đối với một số cây trồng, một số sản phẩm cũng là một biện pháp ít nhiều đóng góp cho việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động. Thứ hai, phát triển ngành nghề: Phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Đây là hai ngành kinh tế mà trong quá trình phát triển có mối quan hệ chặt chẽ về nguyên liệu, lao động, thị trường, môi trường. Phát triển ngành nghề nông thôn phải chú ý tới các nghề mới và hết sức chú trọng khôi phục, tái tạo, phát triển ngành nghề truyền thống. Phát triển ngành nghề truyền thống phải gắn chặt trong mối quan hệ chặt chẽ với công nghiệp thành thị, với thị trường trong và ngoài nước. Kết hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức và sở hữu, lựa chọn công nghệ, kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, thiết bị tiên tiến thủ công, cơ khí nhỏ trong nhiều loại hình doanh nghiệp. Giải quyết được đầu ra cho các ngành sản xuất trồng trọt là những ngành mà việc tiêu thụ sản phẩm được coi là ách tắc nhất hiện nay. Tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn và từ đó tăng thu nhập cho lao động. Tạo cơ sở thức ăn để phát triển ngành chăn nuôi. Cho phép giữ lại một phần lợi nhuận sản xuất nông nghiệp cho khu vực nông thôn, vì nếu không có những ngành chế biến ở nông thôn thì lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp sẽ di chuyển sang các ngành chế biến ở đô thị và sang lĩnh vực lưu thông. Khôi phục và phát triển những ngành nghề truyền thống, đặc biệt là những ngành nghề tạo ra sản phẩm hiện đang có nhu cầu lớn trên thị trường trong và ngoài nước. Thời gian sản xuất không phụ thuộc vào mùa vụ, có thể sản xuất quanh năm, làm nhiều giờ trong một ngày, kể cả buổi tối; Nguyên liệu thường là nguyên liệu thu gom, nguyên liệu tái sinh không đòi hỏi chất lượng cao. Không đòi hỏi nhà xưởng có quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, trang thiết bịi hiện đại. Với những ưu điểm như vậy, trước mẳt phát triển làng nghề cần tập trung vào các nghề có khả năng thu hút nhiều lao động (đặc biệt là lao động tại chỗ), nhưng có khả năng tạo ra sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn, đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm, sứ, đồ mỹ nghệ, sản phẩm thêu ren, tơ lụa,… Những ngành nghề sản xuất sản phẩm có nhu cầu lớn trên thị trường nhưng lại phải cạnh tranh với công nghiệp đô thị như: vật liệu xây dựng, sản phẩm cơ khí, giấy, dệt may…đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ lao động cao, trang thiết bị hiện đại cần phát triển thận trọng từng bước. Trước hết, cần phát triển ở dạng liên kết với các cơ sở công nghiệp đô thị dưới hình thức tham gia sản xuất gia công, bán thành phẩm. 4. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động: Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn trên phạm vi cả nước và triển khai thành các đề án trong từng vùng. Đây là giải pháp mang tính tiền đề của hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động. Bởi vì, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn chỉ có thế mang lại hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi có được hành động đúng. Từ đó, làm cơ sở xây dựng đề án nâng cao chất lượng nguồn lao động hiện có và nguồn lao động trong tương lai. Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa phương, các ngành về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khối nông-lâm nghiệp và các địa phương, nắm chắc yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động, thực hiện phân tích, đánh giá yêu cầu hiện tại và yêu cầu tương lai trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ… Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngoài yêu cầu về mặt vật chất còn cần chuẩn bị một lượng lao động có chât lượng cao của ngành giáo dục. Xét riêng về các điều kiện vật chất cho ngành giáo dục, cần chuẩn bị trên các phương diện sau: Chuẩn bị hệ thống cơ sở trường lớp, đặc biệt là trường dân tộc nội trú một cách đầy đủ theo điều kiện của các địa phương, chủ yếu dựa trên cơ sở giúp đỡ của ngân sách. Đối với các xã miền núi, trong đó có các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, cần tận dụng nguồn vốn của chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng sâu vùng xa, kết hợp với sự đống góp sức lao động của địa phương để xây dựng trường lớp đảm bảo yêu cầu học tập của học sinh, tránh tình trạng tranh tre nứa lá tạm bợ như hiện tại. Để khuyến khích các thầy cô giáo về với nông thôn và miền núi, cần có điều kiện vật chất nhất định, trong đó đảm bảo đời sống vật chất cho các thầy cô giáo để họ yên tâm công tác là rất cần thiết, xây dựng cần kết hợp xây dựng nhà tập thể cho giáo viên. Quy hoạch, sắp xếp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề nên tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Nghiên cứu thành lậo một số trường và cơ sở đào tạo mới. Hiện đại, hệ thống các trường đại học và cao đẳng đã đáp ứng các yêu cầu đào tạo các cử nhân kinh tế, cử nhân khoa học xã hội và các kỹ sư, bác sĩ. Vì vậy, trước mắt, việc thành lập các trường dạy nghề, các trường đào tạo các bộ kỹ thuật… những đối tượng đang thiếu hụt lớn. Củng cố và sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề hiện có. Việc củng cố, sắp xếp các trường chuyên nghiệp hiện có theo hướng tập trung quản lý đào tạo và nâng cao năng lực đào tạo trên các mặt như: Đội ngũ giáo viên, giáo trình, bài giảng và cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo. Ngoài các cơ sở đào tạo và dạy nghề do các tỉnh quản lý, trên địa bàn một số tỉnh còn có một số trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề của trung ương đóng tại địa phương. Liên kết nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trực tiếp vào sản xuất. Đây là hướng gắn trực tiếp đào tạo với thực tế. Hướng này có phạm vi áp dụng rộng, tính khả thi cao và hiệu quả. 5. Một số giải pháp khác: Nhà nước cần có cơ chế và chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các chương trình và dự án, tạo thêm việc làm, thu hút lao động nông thôn. Ưu tiên các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, công nghiệo nông thôn, chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ công nhân lành nghề, cơ giới hoá và HĐH nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước có chính sách miễn thuế, giảm giá thuế đất, các loại thuế, phí và đơn giản hoá các thủ tục trong các khâu thẩm định, xét duyệt và triển khai các dự án đầu tư đó nhằm khuyến khích bằng lợi ích vật chất các chủ đầu tư. Các chương trình và dự án bằng nguồn vốn ngân sách và vốn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Đối với phương pháp CNH –HĐH nông nghiệp nông thôn giải pháp hữu ích cho vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông dân là xây dựng mới các trung tâm công nghiệp chế biến và dịch vụ thương mại trên địa bàn nông thôn với quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ cao để một mặt thu hút lao động nông nghiệp qua đó bồi dưỡng và nâng cao tay nghề của nông dân, mặt khác gắn công nghiệp với vùng nguyên liệu một cách tự giác, có hiệu quả. Các mô hình công nghiệp mía đường Lam Sơn Thanh Hoá, gạo xuất khẩu ở nông trường Sông Hậu Cần Thơ… Giải pháp cuối cùng là tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Trước hết cần tạo ra sự thống nhất quan điểm chỉ đạo của các ngành từ trung ương đến địa phương và cơ sở về vấn đề việc làm và đào tạo nghề cho nông dân. Ưu tiên tối đa cho những dự án có nhiều khả năng thu hút nhiều lao động nông nghiệp vào làm việc và đào tạo được nhiều công nhân kỹ thuật tại địa bàn nông thôn. III.KẾT LUẬN Nông thôn là khu vực tập trung đông dân cư (chiếm khoảng 80% dân số cả nước) chủ yếu làm nghề nông. Có địa bàn rộng bao quanh thành thị, là nơi hoạt động chủ yếu của ngành sản xuất vật chất nông lâm ngư nghiệp, nơi bảo tồn và lưu trữ các di sản văn hoá, phong tục tập quán, truyền thống, lễ hội đồng thời cũng là những điểm nghỉ ngơi, giải trí, du lịch sinh thái hấp dẫn. Tuy nhiên ở những vùng này còn một số mặt thấp kém về trình độ văn hoá, khoa học và công nghệ. Rõ ràng nông nghiệp có nhiều đặc điểm khác đô thị, nên tiến hành công nghi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc75731.DOC
Tài liệu liên quan