Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Trong pháp luật dân sự nguyên tắc tự do cam kết, tự do thỏa thuận là nguyên tắc đặc trưng, xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ và độc lập về tài sản, tự chịu trách nhiêm về tài sản của các chủ thể. Do vậy nguyên tắc tự thỏa thuận trở thành nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ ngành luật dân sự, được quy định cụ thể tại Điều 4 BLDS 2005. Một số trường hợp giao dịch dân sự mà trong giao dịch một số tài sản đưa ra giao dịch là tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước do vậy khi vô hiệu thì điều đầu tiên là các bên xác định tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. do vậy các bên chỉ co thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường mà không được đề cập tới vấn đề tài sản;

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8599 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập , thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự” (theo Điều 17 BLDS 2005) …. Tuy nhiên không phải cá nhân nào cũng có năng lực hành vi dân sự hoàn toàn mà có trường hợp có những cá nhân bị hạn chế, hoặc chỉ nó năng lực hành vi dân sự một phần thì trường hợp này cần có những người đại diện cho họ đứng ra để đảm bảo cho họ trong giao dịch dân sự. + Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp họ bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ đuợc toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự. + Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. + Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý …) + Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không đuợc phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Còn đối với các chủ thể khác: pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Các chủ thể này tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện của họ. Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch dân sự phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đền hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất và kinh doanh khác theo qui định của pháp luật (Điều 106 BLDS 2005). Tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005). 2.2. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hôi: Mục đích tức là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch dân sự nào đó. Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thỏa thuận trong giao dịch. Tất cả nội dung và mục đích của bất kì một giao dịch dân sự nào đều phải phù hợp vơi pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên tham gia giao dịch dân sự và giao dịch dân sự mới có hiệu lực. 2.3. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí, và bày tỏ ý chí, cho nân tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, thiếu một yếu tố đó không còn là tự nguyện. các bên tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện: tự do, tự nguyện câm kết, thỏa thuận, vi phạm sự tự nguyện chính là vi phạm thỏa thuận, và vi phạm pháp luật. Về nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thỏa thuận được quy định tại Điều 4 BLDS 2005. 2.4. Hình thức của giao dịch phải phù hợp với quy định của pháp luật: Hình thức của giao dịch dân sự là phương tiện thể hiện nội dung của giao dịch, Thông qua phương tiện này bên đối tác cũng như người thứ ba có thể biết đuợc nội dung của giao dịch đã xác lập. Hình thức của giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự. Nó là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa cá bên, qua đó xác định trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm xảy ra. Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Người xác lập giao dịch có quyền lực chọn hình thức của giao dịch đó. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì pháp luật mới có yêu cầu về hình thức buộc các chủ thể phải tuân thủ thao (yêu cầu phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực, đăng ký, xin phép). Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhân, được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 124 BLDS năm 2005) II. Giao dịch dân sự vô hiệu: 1. Khái Niệm: Theo Điều 127 BLDS 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được qui định tại Điều 122 của bộ luật này thì vô hiệu”. Ví phạm các điều khoản tại Điều 122 thì giao dịch sẽ không có giá trị pháp lý ngay từ thời điểm ký kết nêu giao dịch chưa được thực hiện hoặc đang thực hiện thì không còn được thực hiện nữa, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những điều đã nhận. Như vậy ta khẳng định rằng chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Những quy định về sự vô hiệu của gia dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý chủ cho các chủ thể trong giao lưu dân sự. Giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 127 đến Điều 138 của BLDS 2005. 2. Các loại giao dịch dân sự vô hiệu: Giao dịch dân sự vô hiệu có thể phân thành 2 nhóm chính: Vô hiệu tuyệt đối ( vô hiệu đương nhiên); vô hiêu tương đối (do toà án tuyên). Sự phân loại nêu trên có cơ sở dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của hai khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối. Thú nhất là sự khác biệt về trình tự vô hiệu của giao dịch, vô hiệu tuyệt đối thì mặc nhiên bị coi là vô hiệu, còn vô hiệu tương đối thì không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ trở nên vô hiệu khi có đơn yêu cầu của người co quyền, lợi ích liên quan và bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Thứ hai là sự khác biệt về thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối thì thời hạn yêu cầu Tòa nán tuyên bố giao dịch vô hiệu không bị hạn chế. Còn đối với các giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS năm 2005). Riêng trường hợp vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức cũng thuộc nhóm vô hiệu tuyệt đối, nhưng theo quy định của Điều 136 BLDS năm 2005 thì thời hạn yêu cầu tuyên bố vô hiệu là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Thứ ba, giao dịch dấn ự thuộc trường hợp vô hiệu tueyetj đối có thể bị vô hiệu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đường nhiên không có giá trị. Còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Thứ tư là sự khác biệt về mục đích. Các trường hợp pháp luật quy định giao dịch vô hiệu tuyệt đối nhằm mục đích bảo vệ các lợi ích công, còn các trường hợp pháp luật quy định vô hiệu tương đối nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho chính các chủ thể tham gia giao dịch. Vô hiệu tuyệt đối: các trường hợp sau bị coi là vô hiệu tuyệt đối: +) Khi vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS 2005) +) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác, hoặc trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ 3. (Điều 129 BLDS 2005) +) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ những qui định của pháp luật (Điều 134 BLDS 2005) Vô hiệu tương đối khi có các trường hợp sau: +) Khi giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 130 BLDS 2005) +) Khi giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BKDS 2005) +) Khi một bên tham gia giao dịch bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS 2005) +) Khi người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005). 2.1, Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: (Điều 128 BLDS 2005) Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập vè thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên, “tự do thực hiện giao dịch dân sự” chỉ được thừa nhận ở một mức độ hợp lý nếu giao dịch đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Thông thường các quy định của pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Tuy nhiên có một số giao dịch không có quy định của pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn vô hiệu vì xâm phạm đạo đức xã hội, ví dụ hợp đồng ngăn cản cha mẹ và con cái sống chung là vô hiệu vì vi phạm đạo đức xã hội. Trong trường hợp này giao dịch dân sự được coi là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối bởi vậy pháp luật không quy định thời hạn tuyên bố giao dịch vô hiệu, các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch, tài sản, hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch bị tịch thu và sung quỹ nhà nước nếu trong trường hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình, nếu một bên có lỗi thì bên đó phải chịu thiệt hại. Trong nhiều trường hợp pháp luật buộc các bên phải biết mình đã giao kết và thực hiện giao dịch dân sự bất hợp pháp, ví dụ mua bán hêroin, trong trường hợp này cả hai bên đều có lỗi và phải chịu thiệt hại, ngoài ra các bên còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của bộ luật hình sự. 2.2, Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: (Điều 129 BLDS 2005) Giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao dịch. Có hai loại giao dịch dân sự giả tạo: Thứ nhất là giao dịch được xác lập để che giấu một giao dịch dân sự khác. Thứ hai là giao dịch được xác lập nhưng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Trong cả hai trường hợp trên đều có đặc điểm chung đó là sự thông đồng, nhất trí của cả hai bên tham gia giao dịch dân sự nhằm tạo ra sự nhận thức sai lầm bên ngoài của sự việc. các giao dịch dân sự giả tạo đều bị coi là vô hiệu. 2.3, Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: (Điều 130 BLDS 2005) Theo quy định tại Điều 122 thì điều kiện đầu tiên để giao dịch dân sự có hiệu lực là người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể tự mình thể hiện ý chí và ý thức dầy đủ về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm phát sinh từ giao dịch mà mình đã giao kết và sẽ thực hiện. Những giao dịch này không mặc nhiên vô hiệu mà chỉ được xem xét vô hiệu khi có yêu cầu của người đại diện cho họ, nếu người đại diện của họ không khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên bố vô hiệu thì đương nhiên giao dịch vẫn có hiệu lực pháp luật. 2.4, Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn: (Điều 131 BLDS 2005) Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ sự nhận thức của các bên phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. nếu bên nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể cị tuyên vô hiệu. Trường hợp sự nhầm lẫn có thể xảy đến do lỗi của một bên đối tác thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch hoặc yêu cầu Tòa Án tuyên bố vô hiệu. 2.5, Giao dịch dân sự do bị lừa dối, đe dọa. (Điều 132 BLDS 2005) Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa thì vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, đe dọa và Tòa án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của của bên bị lừa dối, de dọa. khi Tòa án tuyên bố vô hiệu thì bên lừa dối, de dọa phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối với bên bị lừa dối, de dọa. 2.6, Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. (Điều 133 BLDS 2005). Đây là trường hợp xác lập giao dịch trong điều kiện nào đó với những nguyên nhân khác nhau mà tại thời điểm xác lập giao dịch, người đó không nhân thức được hành vi của mình như say rượu.... Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự. thì sau đó chính người đó có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vo hiệu. Việc phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia giao dịch. 2.7, Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức của giao dịch. (Điều 134 BLDS 2005) Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự chọn hình thức giao dịch. Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép mà các bên không tuân thủ quy dịnh này thì mới vô hiệu. Khi các bên không tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án xem xét và “buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định”. Việc ấn định thời hạn do tòa án quyết định căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể. Buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và nghĩa vụ của tòa án. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do tòa án quyết định thì giao dịch mới vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại. Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là một thể thống nhất trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một giao dịch phải đặt nó trong tổng thể của mối quan hệ biến chứng này.Giao dịch dân sự không tuân thủ các điều kiên mà pháp luật quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì có thể bị Tòa án tuyên bố là giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ hay từng phần. Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ là giao dịch dân sự có toàn bộ nội dung vô hiệu hoặc một phần bị vô hiệu nhưng ảnh hưởng đến toàn bộ giao dịch, do đó giao dịch không co hiệu lực pháp lý. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần là khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của giao dịch (theo quy định tại Điều 135 BLDS năm 2005). Trong trường hợp này chỉ phần của giao dịch bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu không có hiệu lực pháp luật, còn các phần còn lại vẫn có giá trị pháp lý. III. Hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu có nghĩa là giao dịch ấy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Theo Điều 137 BLDS 2005 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. 2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. nên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. ”. Trong trường hợp vô hiệu tuyệt đối, giao dịch dân sự ấy có thể bị vô hiêu không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án mà đương nhiên không có giá trị, còn trong trường hợp vô hiệu tương đối, thì quyết định của Tòa án là cơ sở làm cho giao dịch trở nên vô hiệu. Quyết định của Toàn án mang tính chất phán xử. Tòa án tiến hành giải quyêt các vụ việc khí có đơn yêu cầu của các bên (hoặc đại diện hợp pháp của họ). bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Tòa các cơ sở yêu cầu. Dựa trên những minh chứng đó, Tòa án mới cân nhắc để ra quyết định giao dịch có bị vô hiệu hay không. Vậy trừ trường hợp vô hiệu tuyệt đối, chỉ khi Tòa án tuyên bố thì một giao dịch dân sự mới bị xác định là vô hiêu, vàtuyên bố giao dịch dân sự vô hiêu của Tòa án khiến giao dịch dân sự ấy trở nên vô hiệu, có nghĩa là: 1. Chấm dứt thực hiên giao dịch dân sự: Khi một giao dịch vô hiệu, không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký kết. Do vậy, không có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao dịch, nghĩa là các bên không còn ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau. Nói cách khác, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên không được pháp luật bảo vệ. Các nhà lập pháp trên thế giới đều có quan điểm cho rằng khi giao dịch dân sự vô hiệu các bên phải chấm dứt thực hiện giao dịch đó. Nếu mới xác lập chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện, còn trong trường hợp đang thực hiện thì các bên không được thực hiện nữa. Quan điểm này của các nhà làm luật Việt Nam được ghi nhận tại Điều 137 BLDS 2005. 2. Xử lý hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu: Đây cũng là vấn đề quan trọng mà hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu mang lại đó là vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên có lỗi gây ra giao dịch dân sự vô hiệu, bởi điều đó bảo vệ trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch, bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba. Trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải dựa vào yếu tố lỗi của các chủ thể tham gia giao dịch. Thông thường đối với tât cả các giao dịch dân sự vô hiệu, pháp luật quy định bên nào có lỗi thì phải bồi thường cho bên không có lỗi, nếu cả hai bên cùng có lỗi thì mỗi bên tự chịu phần thiệt hại của mình. Trong một số trường hợp pháp luật quy định việc tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được như giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật và trái với đạo đức xã hội (Điều 128 BLDS 2005), giao dịch dân sự do bị lừa dối, bị đe dọa (Điều 134 BLDS 2005). 3. Hậu quả pháp lý theo thỏa thuận của các chủ thể được tòa án công nhận: Trong pháp luật dân sự nguyên tắc tự do cam kết, tự do thỏa thuận là nguyên tắc đặc trưng, xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ và độc lập về tài sản, tự chịu trách nhiêm về tài sản của các chủ thể. Do vậy nguyên tắc tự thỏa thuận trở thành nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ ngành luật dân sự, được quy định cụ thể tại Điều 4 BLDS 2005. Một số trường hợp giao dịch dân sự mà trong giao dịch một số tài sản đưa ra giao dịch là tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước do vậy khi vô hiệu thì điều đầu tiên là các bên xác định tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà nước. do vậy các bên chỉ co thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường mà không được đề cập tới vấn đề tài sản; Sự thỏa thuận của các đương sự có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết dứt điểm các vụ án dân sự vô hiệu, không những bớt công việc cho TAND các cấp mà cũng giảm bớt các khiếu nại. bức xúc kéo dài. Vì thế mà trong việc giải quyết các hậu quả pháp lý do các giao dịch dân sự vô hiệu mang lại rất cần sự thỏa thuận của các bên đương sự. Toàn bộ phân tích trên đây cho thấy: bên cạnh phần lớn các ưu điểm, các quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu còn bộc lộ một số hạn chế. Cần sửa đổi, bổ sung những hạn chế đó như sau: - Thay đổi cơ cấu của phần quy định về Giao dịch dân sự. Cụ thể đảo các Điều 128 và 129 lên ngay sau Điều 118 (định nghĩa về giao dịch dân sự vô hiệu); tiếp đó mới đến các Điều 119-127. - Quy định rõ trong Bộ luật dân sự (sửa đổi) hoặc trong văn bản hướng dẫn thi hành rằng: giá để tính tài sản hoàn trả được tính theo giá thị trường tại địa phương nơi tài sản đang tranh chấp đối với từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Quy định rõ hơn về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên có lỗi làm cho giao dịch dân sự vô hiệu. Bổ sung hậu quả bồi thường trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức. - Trong Điều 125 của dự thảo về bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu lựa chọn phương án hai cho khoản 2, cần bổ sung thêm quy định: người này còn có quyền yêu cầu người đã xác lập giao dịch với mình hoàn trả tài sản mà mình đã đưa vào giao dịch và bồi thường thiệt hại. IV. Các vụ việc về giao dịch dân sự vô hiệu trong thực tế: Vụ việc thứ 1: A bán một căn hộ nhưng không có công chứng vì giấy tờ của căn hộ này chưa xong. Đến giờ giá nhà “đóng băng” mà giá vàng lại tăng nên khách hàng không chịu mua nữa. Họ đề nghị A trả lại số tiền đã giao. Vậy, việc mua bán đuợc xác định diễn ra cách đây gần 2 năm, hai bên tự nguyện, bên mua có còn quyền khởi kiện nữa hay không ? Theo quy định của Bộ Luật Dân sự hiện hành (BLDS năm 2005), cụ thể là tại Điều 122 BLDS 2005, giao dịch dân sự này đã vi phạm quy định về mặt hình thức. Về giao dịch mua bán nhà ở BLDS quy định các bên mua bán phải làm hợp đồng bằng văn bản và hợp đồng đó phải được chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền. Vì vậy, giao dịch mua bán giữa A với khách mua đã không tuân thủ các quy định về hình thức của pháp luật nên giao dịch đó là vô hiệu, cụ thể theo quy định tại điều 134 BLDS 2005. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 136 BLDS năm 2005, Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cho giao dịch này là hai năm, kể từ ngày giao dịch được xác lập. Như vậy, kể từ ngày Luật mới có hiệu lực (1-1-2006), trong khoảng thời gian hai năm sau đó, bên mua có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đã lập là vô hiệu vì không tuân thủ đúng hình thức luật định và đòi A trả lại tiền. Trong trường hợp đó, thường thì Tòa án cho các bên trong một thời hạn nhất định - từ một đến hai tháng, để thực hiện lại thủ tục mua bán; nếu quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch đó vô hiệu. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được xử lý theo quy định tại điều 137 BLDS 2005, tức các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền. Nghĩa là vợ chồng bạn phải trả tiền mà bên mua đã giao, bên mua sẽ trả lại nhà, bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường. Ngoài thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự là vô hiệu, việc mua bán coi như đã thống nhất và bên mua sẽ không thể đòi lại số tiền đã giao Vụ việc thứ 2: A là thành viên của 1 Công ty TNHH có 3 thành viên A,B,C. Năm 2002 vì cần vay tiền Ngân hàng nên A đồng ý cho công ty mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A. Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ xuất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất? Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình" . Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản 1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138 Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực". Vì ông A đã sơ xuất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là 2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng 1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của ông đối với diện tích 1.992m2.(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị ) V. Thực trạng - Giải pháp đối với việc áp dụng luật, tuyên bố gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.doc
Tài liệu liên quan