Tiểu luận Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

2. Quan điểm của Đảng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhạp Quốc tế hiện nay.

Thứ nhất, Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Góp phần giữ gìn bản sác dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay thì Đảng chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bên vững của xã hội nhằm đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,. biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16571 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Văn hóa dân tộc là một vấn đề rộng lớn rất phong phú và hức tạp có tác động to lớn đến sự trường tồn của dân tộc. Cùng với nền kinh tế thị trường thì các sản phẩm của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sẽ có cơ hội vào nước ta. Sự tác động của nền văn hóa bên ngoài vào nền văn hó dân tộc sẽ nảy sinh những thời cơ và thách thức mới, những thuận lợi và khó khăn mà hậu quả không những tác động đến nền văn hóa dân tộc mà còn tác động đến tương lai của đất nước. Vì vậy, trong quá trình hội nhập chúng ta phải biết tiếp thu và phát huy những mặt tích cực, nhận biết và ngăn chặn, đẩy lùi những mặt tiêu cực của nền văn hóa bên ngoài. Chính vì thế, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc luôn được coi là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước. Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, là tổng hòa của tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu của văn hóa. Văn hóa không phải giá trị cố định, bất biến mà văn hóa luôn phát triển. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và tồn tại dưới các hình thức như: các công trình kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, ngôn ngữ, tập quán, âm nhạc, tôn giáo…. Bản sắc văn hóa dân tộc là sắc thái gốc, là những đường nét, màu sắc riêng biệt không thể trộn lẫn của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc làm nên cốt lõi vững chắc giúp cho nên văn hóa luôn giữ được tính duy nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ thể sáng tạo văn hóa luôn thống nhất cái riêng của bản thân mình và cái chung của dân tộc . vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc luôn chứa đựng cả tính nhân loại, cả tính khu vực và tính dân tộc. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Khái quát thực trạng về giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay. Trong thời đại ngày nay, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia trên thế giới và Việt Nam cũng là một Quốc gia chịu sự tác động rất lớn của quá trình này, nó luôn có những tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay. Thực trạng về giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay có những mặt tích cực được thể hiện ở ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị vǎn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính nǎng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tǎng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và luôn luôn hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc,các danh nhân vǎn hóa, những người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế. Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao trình độ học vấn của nhân dân. Trên lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được gìn giữ. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng vǎn hóa dân gian và vǎn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ vǎn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai trái. Số đông vǎn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khǎn của đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân. Thông tin đại chúng ngày càng phát huy vai trò trong đời sống tinh thần xã hội, giao lưu vǎn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng. Thể chế vǎn hóa mới khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng vǎn hóa và tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc vǎn hóa dântộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực trên, thì hội nhập Quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đến sự gìn giữ bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay. Nó được thể hiện ở những mặt sau: Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta. Gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự gìn giữ bản sắc dân tộc ở nước ta. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tǎng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng và hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của đảng và của nhà nước ta. Đời sống vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến làm cho chức nǎng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học nghệ thuật bị thu giảm. Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số vǎn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn. Nhìn chung, thực trạng những năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả những vùng nông thôn, điều kiện sống, tiện nghi sinh hoạt lối sống đã và đang có sự thay đổi lớn. Sự thay đổi đó không chỉ ở đời sống vật chất mà ngay cả trong đời sống tinh thần và cách suy nghĩa của con người. Sự khủng hoảng ở một số mặt trong nhiều phương tiện đời sống đang hình thành và kiên quan đến từng gia đình. Trước đây, một số người đi tìm sự phóng đãng của họ ở nước ngoài, thì nay lối sống đó đã nảy nở ở Việt Nam. Trên một số lĩnh vực lối sống đó đang có xu hướng khống chế lối sống truyền thống Việt Nam. Nhiều cách sinh hoạt, cách nghĩ, cách sống…thực sự đang xung đột với chuẩn mực mà nhân dân ta cho là lành mạnh, Nhiều hiện tượng trước đây hoàn toàn xa lạ thì nay không ít người xem là chuyện bình thường như: bạo lực, kích dâm, xem tiền là tối thượng…Tất cả những cái đó nếu không kịp ngăn chặn thì đến một lúc nào đó an ninh của quốc gia, thậm chí nền độc lập của dân tộc sẽ là cái bia bắn phá, lối sống và văn hóa dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng. Vậy làm thế nào trong khi hội nhập mà chúng ta vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc dân tộc đã là vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay. Vì mục đích của chúng ta tham gia không chỉ vì một cuộc sống tiện nghi mà còn là phát triên một nền văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng tiên tiến, hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm của Đảng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhạp Quốc tế hiện nay. Thứ nhất, Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Góp phần giữ gìn bản sác dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay thì Đảng chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bên vững của xã hội nhằm đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng văn hóa phản tiến bộ. Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” chính là mục tiêu giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Thứ hai, Nền văn hóa chũng ta xây dựng là nền văn hóa iên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn nǎm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc vǎn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong vǎn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thóicũ. Thứ ba, Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái vǎn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền vǎn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng vǎn hóa của các dân tộc anh em. Góp phần vào giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập. Thứ tư, Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền vǎn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa. Thứ năm, Vǎn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Bảo tồn và phát huy những di sản vǎn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị vǎn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, vǎn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khǎn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy "xây" làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản vǎn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa vǎn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng vǎn hóa để thực hiện "diễn biến hòa bình". Phương hướng để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập Quốc tế. Mở cửa hội nhập Quốc tế hiện nay thực sự đang là một cuộc tiếp biến lớn lao, rất căn bản của văn hóa Việt Nam với văn hóa Thế giới. Bởi vì hội nhập Quốc tế sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hóa, trong đó bên cạnh những yếu tố tốt đẹp có cả những yếu tố không phù hợp với văn hóa truyền thống, thậm chí độc hại. Vậy trong quá trình hội nhập chúng ta phải chủ động lựa chọn trước sự xâm nhập ồ ạt từ bên ngoài vào để chống lại sự đảo lộn những thói quen, nếp sống, và cả những suy nghĩ của mọi người trong xã hội. Sau đây là những phương hướng góp phần giữ gìn văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập. Một là, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ động, tích cực và tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ vai trò hạt nhân trong quá trình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc. Đây là một quá trình không thể nóng vội, nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo dục và tự giáo dục trong chính cộng đồng dân tộc. Hai là, mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải được quán triệt trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế - xã hội. Để chính sách đi vào được cuộc sống cần bảo đảm sự thống nhất trong tất cả các khâu từ xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát đến đầu tư nguồn lực thích đáng. Mặt khác, phải xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vì sự phát triển bền vững của dân tộc. Ba là, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế phải do chính các chủ thể văn hóa thực hiện. Mọi nguồn lực bên ngoài chỉ phát huy hiệu quả khi chủ thể văn hóa có ý thức tự giác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Những giải pháp phát triển về kinh tế để đáp ứng những nhu cầu dân sinh phải gắn với nhu cầu bảo vệ đời sống tinh thần, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Muốn vậy, mọi chính sách đều phải gắn với cộng đồng dân tộc, tôn trọng quyền quyết định của cộng đồng dân tộc, đồng thời phải đầu tư nghiên cứu sâu sắc về những giá trị của văn hóa dân tộc để có những giải pháp phù hợp. Bốn là, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có phương pháp, cách thức phù hợp, đi vào thực chất, chống căn bệnh hình thức, chạy theo phong trào làm phá vỡ tính đa dạng, phong phú và bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó sẽ phát huy được tính sáng tạo trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, ngăn chặn sự bảo thủ, trì trệ hay phiêu lưu mạo hiểm trong phát triển của các dân tộc. Năm là, phát triển kinh tế và văn hóa phải gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đây là một trong những nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của dân tộc. Đặc biệt việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cần gắn với giữ gìn không gian văn hóa - nơi duy trì đời sống của cộng đồng dân tộc.   Như vậy, để hòa vào trình độ phát triển của thế giới và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chúng ta cần phát huy các giá trị truyền thống và lấy yếu tố nội sinh làm chủ thể để tiếp cận các yếu tố ngoại sinh, còn coi yếu tố ngoại sinh làm chất kích thích sự biến hóa của các yếu tố nội sinh. Nếu nhân danh sự tiếp thu mà bê nguyên xi những cái bên ngoài những cái văn hóa bên ngoài thì rút cuộc văn hóa dân tộc sẽ bị mất gốc, bị đồng hóa. Mất nước chũng ta có thể giành lại được nước nhưng mất bản sắc văn hóa dân tộc chúng ta sẽ mất tất cả. Thực tế, nhiều nước ở Châu Á, Phi, Mỹ La tinh khi mở rộng giao lưu, phát triển đã đồng nhất hiện đại hóa với phương Tây hóa. Kết quả là sự thu nhập tùy tiện các giá trị bên ngoài không phù hợp với chính mình đã làm cho những chuẩn mực giá trị văn hóa của họ bị biến mất và xã hội thì rối loạn . Việt Nam chủ động và tích cực tham gia hội nhập Quốc tế nhằm tăng cường giao lưu văn hóa giữa các nước nhằm mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc trên thế giới đã góp phần làm phong phú thêm cho nền văn minh nhân loại. Việc giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới là rất cần thiết, nó làm cho các nền văn hóa vốn trước đây hoàn toàn khác biệt nay có thể xích lại gần nhau hơn. KẾT LUẬN Hội nhập Quốc tế về văn hóa giúp chúng ta có điều kiện để giới thiệu Văn hóa Việt Nam với bạn bè Quốc tế và trong quá trình giao lưu chúng ta có điều kiện chủ động tiếp thu những tinh hóa văn hóa của thế giới để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc, khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc mình. Không ngừng giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam ta trong quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.doc
Tài liệu liên quan