Tiểu luận Hình thức di chúc theo quy định của bộ luật dân sư 2005

A. LỜI MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 1

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI CHÚC VÀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 1

1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại di chúc 1

2.Hình thức của di chúc theo pháp luật Việt nam qua các thời kỳ 3

2.1.Hình thức của di chúc trong luật Hồng Đức 3

2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long 4

2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc 5

2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay 5

2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981. 6

2.4.2 Hình thức di chức được quy định trong pháp luật thừa kế ngày 30/08/1990 7

2.4.3 Hình thức di chúc được quy định tronng BLDS 1995 8

2.4.4 Hình thức của di chúc theo quy định BLDS năm 2005 9

II. HÌNH THỨC DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 9

1. Di chúc bằng văn bản (điều 653 BLDS năm 2005) 9

2. Di chúc miệng (Điều 651, khoản 5 điều 652) 16

III.THỰC TRẠNG ÁP DỤNG LUẬT PHÂN CHIA DI SẢN THEO DI CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC 17

1. Thực trạng áp dụng luật phân chia di sản theo di chúc 17

2.Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức di chúc 18

C.KẾT LUẬN 20

 

 

 

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4919 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Hình thức di chúc theo quy định của bộ luật dân sư 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h của người có tài sản. Theo điều 390 Quốc triều hình luật thì cha mẹ nhiều tuổi về già phải có trách nhiệm lo làm chúc thư để lại tài sản cho con cái, quy định này nhằm tránh sự tranh chấp tài sản về sau Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư, trong trường hợp không biết chữ thì chúc thư có thể nhờ xã trưởng viết thay và chứng thực (điều 366 QTHL) trong trường hợp chúc thư không tuân thủ hình thức do pháp luật quy định thì sẽ không có giá trị pháp lý lúc đó di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Trường hợp di chúc không qua xã trưởng xác nhận thì cần có chức sắc trong làng làm chứng. Theo đoạn 273 Hồng Đức Thiện Chính thì quy định chúc thư chỉ được coi là hợp pháp nếu có Hương trưởng, quan viên trong bản từ 30 tuổi trở lên là người viết thay hoặc chứng kiến. Như vậy, chúc thư phải có người làm chứng là người có chức sắc xã hội, là người đứng đầu họ tộc hoặc hương chủ làm chứng. Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan của di chúc, tránh những tranh chấp về chữ viết, nội dung trong di chúc 2.2.Hình thức của di chúc trong luật Gia Long So với thời Lê, thời Nguyễn mà cụ thheer là trong luật Hoàng Việt Luật Lệ có rất ít chế định liên quan đến thừa kế. Tuy nhiên, những nguyên tắc về quan hệ tài sản và thừa kế cơ bản vẫn tương tự như luật thời nhà Lê nhưng đối với hình thức thừa kế theo di chúc thì trong Hoàng Việt Luật Lệ lại không quy định về hình thức của di chúc mà chỉ có quy định về người thừa kế theo di chúc có quyền nhận di sản sau khi cha mẹ chết 2.3.Hình thức của di chúc dưới thời Pháp thuộc So với pháp luật triều Lê và Nguyễn thì pháp luật thừa kế thời Pháp thuộc theo khuôn mẫu của Bộ luật Dân sự Napoleon đã quy định một cách chi tiết hơn trong bộ luật Dân dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng việt trung kỳ hộ luật (HVTKHL). Pháp luật thời kỳ này cũng thừa nhận hai hình thức chia thừa kế là: chia theo di chúc và chia theo pháp luật. Về hình thức di chúc được quy định như sau Pháp luật quy định người thành niên hoặc đã thoát quyền nếu có đủ chuyên môn đều có thể làm di chúc để xử lý tất cả tài sản của mình (điều 321 DLBK và điều 313 HVTKHL), người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý chí của mình nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính (điều 320 DLBK và điều 312 HVTKHL). Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người có trong những người được thưa kế, việc truất quyền phải được lập thành văn bản viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư. Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực, chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng, người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi cư trú của người lập chúc thư nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi ở hiện cuaqr người lập chúc thư (điều 326 DLBK và điều 316 HVTKHL). Chúc thư phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập chúc thư, họ, tên, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản, có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người một bản 2.4.Giai đoạn từ 1945 đến nay Sau cách mạng tháng Tám nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời. một Nhà nước non trẻ phải đối mặt với những vấn đề phức tạp về chính trị, văn hóa, xã hội,...Nhiệm vụ lúc này là bảo vệ củng cố thành quả Cách mạng kể cả những vấn đề liên quan kể cả những vấn đề liên quan đến lĩnh vực dân sự. Để đảm bảo cho quan hệ pháp luật dân sự phát triển bình thường Nhà nước cần có hệ thống pháp luật. Tuy nhiên do thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1986 là chế độ bao cấp nên các quan hệ dân sự được hành chính hóa. Do vậy, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp quy đơn hành điều chỉnh các quan hệ dân sự và các vấn đề dan sự được quy định trên trong các văn bản hành chính. Mặc dù, các quy định thừa kế chiếm số lượng nhiều hơn so với các quy định dân sự nhưng các quy định thừa kế giai đoạn từ 1945 đến 1986 vẫn chỉ là những quy định chung cho vấn đề hình thức của di chúc cũng chưa được đề cập nhiều. Để làm rõ thay đổi và phát triển về hình thức của di chúc trong giai đoạn này chúng ta đi vào so sánh 4 văn bản điển hình quy định về thừa kế sau: 2.4.1 Hình thức của di chúc quy định trong thông tư số 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế ban hành ngày 24/7/1981. Theo quy định tại khoản A mục IV của thông tư số 81 ta thấy hình thức di chúc cũng được chia làm hai loại, là di chúc viết và di chúc miệng, trong đó: Di chúc viết phải do người có năng lực hành vi đân sự tự nguyện lập ra, được chính quyền địa phương xác nhận. Trong trường hợp đặc biệt, di chúc có thể do cơ quan, đơn vị nơi đương sự làm việc xác nhận. Nếu người có tài sản đang đi trên phương tiện giao thông hay đang ở một cơ sở chữa bệnh mà gặp tình huống phải cấp bách lập di chúc thì sự chứng nhận của người phụ trách phương tiện giao thông hay cỏ sở chữa bệnh cũng được coi là hợp lệ. Di chúc của người cpos năng lực hành vi dân sự hoặc di chúc là ra vì đe dạo, ép buộc hoặc di chúc miệng không có người làm chứng đều không có giá trị. Di chúc miệng pháp luật yêu cầu phải có người làm chứng bảo đảm 2.4.2 Hình thức di chức được quy định trong pháp luật thừa kế ngày 30/08/1990 Hình thức di chúc theo quy định trong pháp lệnh được thể hiện dưới hai hình thức là di chúc viết và di chúc miệng, tuy nhiên nó được quy định cụ thể và rõ ràng hơn về tính hợp pháp, nội dung và loại di chúc bằng văn bản cũng như các yêu cầu đối với di chúc miệng. Di chíc viết phải đáp ứng được các diều kiện về nội dung theo điều 13 của pháp lệnh thừa kế năm 1990 là phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, họ, tên và nơi thường trú của người lập di chúc; họ, tên người được hưởng di sản, tên cơ quan, tổ chưc được hưởng di sản; tài sản, quyền để lại tài sản cho người khác, cơ quan, tổ chức được hưởng; nơi có tài sản đó, nếu trong di chúc có giao nghĩa vụ thì phải nêu rõ giao cho ai và nghĩa vụ gì. Trong bản di chúc phải có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Trong quy định tại pháp lệnh 1990 đã có sự phân loại các loại di chúc viết như sau: Di chúc viêt được cơ quan công chứng hoặc UBND chứng thực Di chúc viết được cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài chứng thực Di chúc viết có giá trị như di chúc được chứng thực bao gồm có: Di chúc của quan nhân có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên. Trong trường hợp không thể yêu cầu cơ quan công chứng hoặc UBND chứng thực được; di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; đi chúc của người đang điều trị tại cỏ sở bệnh viện, cỏ sở điều dưỡng có xác nhậm của người điều trách cơ sở đó; đi chúc của người đang là công việc khảo sát, thăm dò nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó; di chúc cuả người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang cải tạo ở trại cải tạo, có xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ, cải tạo đó. Di chúc viết không có chứng thực xác nhận sẽ được coi là hợp pháp nếu đúng do người để lại di sản tự lập trong khi minh mẫn, không bị lừa dối và không trái với quy định cảu pháp luật. Di chúc miệng được lập với yêu cầu sau: Thứ nhất: trường hợp tính mạng bị đe dọa nghiêm trọng mà không thể lập di chúc viết được. Thứ hai: người để lại di sản lập trong tình trạng minh mẫn không bị lừa dối, không trái với quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định về hình thưc di chúc miệng tại pháp lệnh thừa kế 1990 ta nhận thấy đã có nhiều quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, so với thông tư số 81 thì quy định di chúc miệng yêu cầu có người làm chứng đã bị hủy bỏ tại pháp lệnh thừa kế 2.4.3 Hình thức di chúc được quy định tronng BLDS 1995 BLDS năm 1995 đã xây dựng cụ thể hình thức cảu di chúc trong một điều luật (theo điều 652) thì hình thức di chúc bao gồm: di chúc bằng văn bản và di chúc bằng miệng đồng thời cũng quy định thêm người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc băng chữ viết và tiếng nói của dân tộc mình. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng yêu cầu phải tự tay người lập di chúc viết và kí vào bản di chúc với đầy đủ nội dung mà pháp luật quy định. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: người lập di chúc không thể viết di chúc thì nhờ người viết hộ nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng, người lập di chúc kí tên hoặc điểm chỉ vào di chúc trước mặt những người làm chứng cũng phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc để xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc. Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn. Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước về thủ tục lập di chúc tại công chứng Nhà nước hoặc UBND xã, phường, thị trấn. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực: các trường hợp di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực tại BLDS 1995 vẫn giữ nguyên so với quy định tại pháp lệnh thừa kế năm 1990. Di chúc miệng: điều kiện để lập di chúc và di chúc bị hủy bỏ về cơ bản là giống so với pháp lệnh thừa kế năm 1990. Nhưng tại BLDS năm 1995 còn quy định rõ ràng hơn về nguyên nhân đe dọa đến tính mạng mà một cá nhân không thể lập di chúc bằng văn bản được đó là do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác 2.4.4 Hình thức của di chúc theo quy định BLDS năm 2005 Nhìn chung sau 10 năm thực hiện BLDS 1995 đã điều chỉnh các quan hệ dân sự trong nền kinh tế thị trường, góp phần phát triển và ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trường phát triển, các giao lưu dân sự trong đó có các quan hệ thừa kế cũng rất đa dạng và ngày càng phức tạp. Sự ra đời của BLDS 2005 đã quy định về hình thức của di chúc như sau: Di chúc bằng văn bản vẫn giũ nguyên các loại như BLDS 1995, tuy nhiên có sự sửa đổi thể hiện di chúc bằng văn bản có công chứng và không phải là cơ quan công chứng Nhà nước như trong BLDS 1995. Bởi vì, khi ban hành BLDS năm 2005 đã có luật công chứng quy định văn phòng công chứng, do đó BLDS 2005 sửa đổi cho phù hợp với luật công chứng. Di chúc miệng về thủ tục lập di chúc miệng cũng được quy định như tại BLDS 1995 tuy nhiên BLDS 2005 đã có sự bổ sung để tăng cường tính xác thực cho bản di chúc là yêu cầu trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng, chứng thực. HÌNH THỨC DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA BLDS 2005 Di chúc bằng văn bản (điều 653 BLDS năm 2005) Theo quy định của pháp luật, tất cả các di chúc được thể hiện bằng hình thức văn bản phải đáp ứng các yêu cầu chung về nội dung, đồng thời mỗi một thể thức cụ thể của di chúc viết phải tuân theo một trình tự tương ứng. Để bản di chúc thể hiện dưới hình thức bằng văn bản có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích cho các chủ thể, người lập di chúc cần phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết như sau: Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc Đây là một nội dung hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, vì thông qua ngày, tháng, năm lập di chúc sẽ xác định được tạ thời điểm đó người lập di chúc có năng lực hành vi dân sự, minh mẫn, sáng suốt hay không, tại thời điểm đó người lập di chúc đã đủ tổi lập hay chưa?. Mặt khác trong trường hợp người quá cố để lại nhiều bản di chúc thì sẽ căn cứ vào ngày, tháng, năm trong di chúc để chúng ta xác định di chúc nào là biểu hiện ý chí sau cùng của người chết và là di chúc có hiệu lực pháp luật. Vì theo quy định tại khoản 5 Điều 667 BLHS thì “ khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật”. Do vậy, tất cả những bản di chúc lập trước đều bị hủy bỏ và chỉ di chúc lập thể hiện ý chí sau cùng mới có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra căn cứ vào ngày, tháng, năm lập di chúc ta có thể xác định được pháp luật hiện hành để điều chỉnh bản di chúc đó. - Di chúc phải ghi rõ họ, tên, nơi cư trú của người lập di chúc: Theo quy định của pháp luật thì thời điểm mở thừa kế, nơi đăng kí từ chối nhận di sản, thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấp đều được xác định thông qua nơi cư trú của người lập di chúc, do đó trong di chúc phải xác định rõ nơi cư trú của người lập di chúc là một yêu cầu quan trọng. Hơn nữa do di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của một bên chủ thể trong giao dịch dân sự nên cần phải ghi rõ họ, tên đầy đủ của người thể hiện ý chí đó. - Di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản. Khác với người hưởng thừa kế theo pháp luật là những người nằm trong diên, hàng thừa kế có quan hệ huyết thống, quan hệ nhuôi dưỡng theo quy định của pháp luật, trong những người được hưởng thừa kế theo di chúc lại không bị giới hạn phạm vi như trên. Những người được hưởng thừa kế theo di chúc có thể là tổ chức, cá nhân bất kì, bằng ý chí của người lập di chúc có thể định đoạt cho bất kì ai được hưởng di sản của mình. Do vậy, khi định đoạt tài sản của mình sau khi chết cho ai, cho tổ chức nào thì người lập di chúc phải xác định rõ trong di chúc như sau: Thứ nhất: Chỉ người nào được người lập di chúc xác định trong di chúc mới là người thừa kế theo di chúc của người đó. Thứ hai: Nếu người lập di chúc không xác định họ, tên của người nhận thưà kế theo di chúc nhưng bằng các yếu tố, căn cứ khác có thể xác định được người đó là ai thì họ vẫn được xác định là người được hưởng thừa kế. Tuy nhiên trường hợp này phải giải thích di chúc, nếu không giải thích được thì coi như không có di chúc. - Di chúc phải ghi rõ di sản và nơi có di sản. Di sản thừa kế chỉ là những tài sản thuộc sở hữ của người chết và chỉ những tài sản thuộc sở hữu của mình thì người lập di chúc mới định đoạt cho những người thừa kế. Do vậy, nếu di sản được ghi rõ trong di chúc sẽ giúp chúng ta xác định được người lập di chúc họ có những tài sản nào, và được phân định ra sao?. Tuy nhiên nếu như trong di chúc của người lập di chúc không ghi rõ, liệt kê từng loại di sản thì cũng không thể coi đó là bất hợp pháp được vì trong trường hợp này những người có thẩm quyền vẫn có thể căn cứ vào pháp luật mà xác định những gì thuộc vào di sản của người chết để lại. Ngoài ra quy định tại khoản 2 Điều 633 BLDS: “ nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản”. Nên việc ghi rõ nơi có di sản là rất cần thiết. - Di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Theo nguyên tắc chung tất cả những người hưởng di sản thừa kế đều phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trên cơ sở tương ứng với kỉ phần tài sản mà họ được hưởng. Ngoài ra việc giao nghĩa vụ cho những người thừa kế là một trong những quyền định đoạt của người lập di chúc. Vì vậy trong di chúc, người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ riêng cho từng người được hưởng thừa kế để họ thực hiện, người lập di chúc phải ghi rõ cơ quan, cá nhân, tổ chức nào phải thực hiện nghĩa vụ mà người chết để lại. Tuy nhiên nếu trong di chúc mà không có sự định đoạt nghĩa vụ riêng cho từng người thì tất cả những người hưởng hưởng thừa kế sẽ cùng nhau thực hiện nghĩa vụ mà người chết để lại. - Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiêụ nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Di chúc là sự thể hiện ý chí của người chết, vì vậy để di chúc được rõ ràng, cụ thể tránh sự tranh cãi giữa những người thừa kế, thì người lập di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu để biểu đạt ý chí của mình. Trường hợp người để lại di chúc lập tại công chứng Nhà nước, UBND xã, phường, thị trấn thì cán bộ có thẩm quyền có trách nhiệm hướng dẫn cho người lập không được viết tắt hoặc dùng kí hiệu để viết trong di chúc. Ngoài ra pháp luật còn quy định để đảm bảo tính khách quan và chính xác cho bản di chúc và ý chí của người lập di chúc trong trường hợp bản di chúc có nhiều trang thì pháp luật yêu cầu người lập di chúc phải đánh số trang theo thứ tự và phải kí hoặc điểm chỉ vào từng trang của di chúc, nhằm tránh tình trạng người khác thêm, bớt, giả mạo, thay thế từng trang của di chúc làm sai lệch ý chí của người lập di chúc. Hình thức di chúc bằng văn bản có nhiều loại khác nhau bao gồm: + Di chúc bằng văn bản có người làm chứng ( Điều 655 BLDS ). Đối với loại di chúc này Điều 655 BLDS quy định : “ Người lập di chúc phải tự tay viết và kí tên vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, còn phải tuân theo quy định tại Điều 653 của bộ luật này”. Do vậy để đảm bảo tính xác thực của loại di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì di chúc phải do chính tay người lập di chúc viết và kí tên, nên loại di chúc này cần đáp ứng đủ hai loại điều kiện nữa đó là: phải do chính tay người lập di chúc viết và kí tên. Nếu một bản di chúc được đánh máy rồi người lập di chúc kí tên thì bản di chúc đó cũng không được chấp nhận mặc dù đó là chữ kí của người lập di chúc. Hay mặt khác nếu bản di chúc đó do chính người lập di chúc viết nhưng lại không kí tên thì tùy từng trường hợp xác định giá trị pháp lý của di chúc, nếu giám định đúng là chữ viết của người lập di chúc thì phải công nhận di chúc. Mục đích của quy định nếu di chúc không có người làm chứng, không công chứng, chứng thực, nếu xác định được đúng ý chí của người lập di chúc thì di chúc đó có giá trị. Vì thế nếu xác định được chữ viết của người để lại di sản đó chính là ý chí của họ thì ý chí này phải được pháp luật thừa nhận. + Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 656 BLDS). Điều 656 BLDS quy định: “ trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm chứng xác nhận chũ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và kí vào bản di chúc”. Theo quy định trên chỉ có thể vì lý do nào đó như người lập di chúc ốm, không biết chữ... mà không thể tự mình viết di chúc được thì họn có thể nhờ người khác viết di chúc và bản di chúc này vẫn được chấp nhận và có giá trị pháp lý, mặc dù không được người lập di chúc trực tiếp viết ra. Nếu đáp ứng yêu cầu tại Điều 653 BLDS và yêu cầu sau khi lập di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng, và người lập di chúc phải kí, và điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng và đồng thời bản di chúc này phải có chữ kí và sự xác nhận của từng người làm chứng về chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc. + Di chúc có công chứng hoặc chứng thực ( Điều 657, 658 BLDS). Theo quy định tại Điều 657, 658 BLDS 2005 có quy định các yêu cầu về trình tự thủ tục lập loại di chúc có công chứng hoặc chúng thực của UBND xã, phường, thị trấn như sau. Mục đích của việc công chứng là nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật. Các quy định pháp luật về công chứng từ trước đến nay đều được quy định cụ thể về vấn đề này, theo Điều 48 luật công chứng năm 2006 quy định “ người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng viên công chứng di chúc chứ không thể nhờ người khác công chứng hộ”. Nếu người để lại di sản đến lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn hoặc di chúc có công chứng viên lập tại chỗ ở của người để lại di sản thì việc lập di chúc được thực hiện như sau: Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc cho công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực nghe. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực ghi chép lại đầy đủ nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố trước đó sau khi đã xác nhận, công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực đã ghi chép chính xác và thể hiện đúng với ý chí, nguyện vọng của mình thì người lập di chúc kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đó. Sau cùng công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực sẽ kí vào bản di chúc đó. + Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực (điều 660 BLDS) Điều 660 BLDS 2005 quy định:các di chúc nếu có xác nhận của người có thẩm quyền cũng có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực là những di chúc như sau: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng, chứng thực. Do người lập di chúc là quân nhân đang làm nhiệm vụ, đóng quân ở xa nơi công chứng và UBND cấp xã, phường, thị trấn hoặc là do nhiệm vụ đặc biệt mà quân nhân đó không thể đi công chứng, chứng thực được, mặc dù đóng quân có thể gần các cơ quan công chứng hoặc chứng thực. Mặt khác, quyền lập di chúc là quyền luôn được pháp luật ưu tiên bảo đảm thực hiện. Vì vậy, với những lí do chính đáng mà cá nhân có thể lập di chúc theo thủ tục có chứng nhận, chứng thực được thì di chúc của họ chỉ cần có xác nhận là vẫn có hiệu pháp luật. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Do đặc thù của loại 2 phương tiện trên khiến cho những hành khách trên phương tiện không có khả năng tiến hành công chứng và chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền được khi mà hai phương tiện này chưa cập càng hoặc hạ cánh. Vì vậy, trong trường hợp cá nhân đang đi hoặc làm việc trên phương tiện này thì chỉ cần cơ trưởng hoặc thuyền trưởng có thẩm quyền xác nhận di chúc trong lúc máy bay chưa hạ cánh và tàu biển chưa cập bến là bản di chúc cũng được thừa nhận và có hiệu lực pháp luật. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Khi đã nằm bệnh viện hoặc cơ sở chữa bệnh thì sức khỏe của cá nhân là không được tốt. Vì vậy, khi có nhu cầu lập di chúc thì dù cơ sở chữa bệnh hoặc bệnh viện có gần nơi công chứng hoặc cơ quan chứng thực nhưng họ cũng không thể đến yêu cầu công chứng hoặc chứng thực di chúc được. Do vậy, nếu di chúc lập trong hoàn cảnh trên thì chỉ cần có xác nhận của người phụ trách bệnh viện hoặc cơ sở chữa bệnh họ đang điều trị thì di chúc đó vẫn được coi là có chứng nhậ hoặc chứng thực. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lí hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó. Di chúc miệng (Điều 651, khoản 5 điều 652) Di chúc miệng là sự thể hiện ý chí thông qua lời nói của cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người còn sống khác sau khi họ chết. Theo quy định tại điều 651, BLDS: “1.trong trường hợp tình trạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Mặt khác,theo quy định tại Khoản 5 điều 652, BLDS: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ. Trong thời gian năm ngày kể từ ngày di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực”. Với quy định trên ta nhận thấy chỉ khi nào tính mạng của một người lâm vào tình trạng nguy kịch không thể lập di chúc bằng văn bản được, vì nếu lập bằng văn bản sẽ không kịp để họ thể hiện ý chí cuối cùng của họ trong việc dịch chuyển tài sản của họ cho người khác khi họ chết nên buộc phải di chúc miệng và di chúc này sẽ được thừa nhận. Tuy nhiên, do ý chí được thể hiện thông qua lời nói nên tính xác thực của nó là không cao dễ bị phân lẫn và xảy ra tranh chấp, vì vậy pháp luật đã quy định sự thể hiện ý chí bằng lời nóicủa người để lại di sản phải là sự thể hiện ý chí cuối cùng và có sự chứng kiến của ít nhất hai người làm chứng và phải được người làm chứng ghi lại thành văn bản của di chúc đó. Mặt khác, do di chúc đó không có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc và người lập di chúc đó cũng không thể kiểm tra việc ghi chép của người làm chứng được, nên điều này ảnh hưởng đến tính xác thực của văn bản ghi chép lại di chúc miệng. Vì vậy, để đảm bảo tính xác thực của di chúc pháp luật cũng quy định thêm khi những người làm chứng ghi chép lại và kiểm tra xác nhận việc ghi chép đó đúng với sự thể hiện ý chí của người chết thì họ sẽ cùng kí tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đó. Đồng thời trong thời gian năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Đây là một điểm mới cả BLDS năm 2005 so với quy định của BLDS năm 1995. Do di chúc miệng là một hình thức di chúc đặc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ dân sự- Hình thức của di chúc.doc
Tài liệu liên quan