Tiểu luận Học thuyết Mác- Lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử

Lênin đã nói : “ Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị nếu nó không tạo ra được hàng ngũ của những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức lãnh đạo phong trào”. Những cá nhân ưu tú, những lãnh đạo thiên tài đều xuất hiện từ các phong trào cách mạng quần chúng và điều tât yếu khi lịch sử cần thì sẽ xuất hiện những cá nhân ưu tú, những anh hùng hào kiệt.

Song giữa vai trò quần chúng nhân dân và vai trò cá nhân có mối quan hệ chăt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Cá nhân ưu tú, lãnh đạo thiên tài là sản phẩm của thời đại, được sinh ra từ các phong trào cách mạng quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa Mác Lênin xem cá nhân trong mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân trong đó quần chúng quyết định nhưng vai trò cá nhân lại có ảnh hưởng to lớn đến quy mô và tốc độ của tiến trình lịch sử. Từ đó học thuyết Mác Lênin luôn chống lại tệ sùng bái cá nhân xem nhẹ vai trò quần chúng.

Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được quan điểm học thuyết Mác Lênin lý giải một cách biện chứng và khoa học và nó còn có ý nghĩa cách mạng Trần Văn Thời lớn trong nhận thức thực tiễn, đã được lịch sử loài người chứng minh.

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 30437 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Học thuyết Mác- Lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính là giá trị bền vững cho mỗi con người, mỗi dân tộc vươn lên đỉnh cao của sự hoàn thiện cuộc sống và nhân cách. Con người sinh ra và lớn lên gắn liền với lịch sử ,xã hội và tính thời đại của chính nó. Vì thế phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính thời đại và tính lịch sử là vấn đề cực kỳ quan trọng về phương pháp luận không thể đưa ra so sánh đối lập giữa con người mới và con người chế độ cũ mà phải xem xét trong mối quan hệ biện chứng đó và con người không trở thànhcon người mới nếu như không nếu như không bắt đầu từ những truyền thống đa được kết tinh trong lịch sử dân tộc. Khi nói đến vấn đề con người và xã hội Mác đã đưa ra luận điểm “xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người sẽ tạo ra xã hội ở mức độ ấy” . Trong cách mạng xã hội , nhân tố con ngườu luôn là mục tiêu, là động lực. Song nó đòi hỏi phải có một lực lượng lảnh đạo cách mạng tác động thúc đẩy thực thi các biện pháp thực hiện hoá vai trò đó vai trò con người thì tất yếu phải giành thắng lợi. Từ vấn đề nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng với mục tiêu “tất cả vì con người” .Bởi vì con người là nhâ tố cơ bản quyết định cho mọi sự thành công hay thất bại. Vì thế trong quá trình đổi mới đất nướcta đi lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nhân tố con người lại càng là vấn đề trung tâm với một môi trường xã hội thực sự dân chủ . Cuộc sống phải được không ngừng cải thiện về vật chất và tinh thần nhằm làm cho con người phát huy được tính độc lập sáng tạo góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đường lối đã đưa ra bên cạnh đó sẽ làm sáng tỏ về con người về vị trí vai trò của con người trong quá trình lịch sử xã hội. 2/ Lý luận học thuyết Mác Lênin về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử: Quan điểm học thuyếtv Mác xít đã chỉ rõ nguồn góc và bản chất con người dựa trên hai vấn đề cơ bản dó là: Một thực thể sinh học và tính xã hội . Chính vì thế Các Mác đã đưa ra luận điểm: “Xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người sẽ tạo ra xã hội ở mức độ đó… * Như thế lịch sử tạo ra con người và con người trong quá trình vận động phát triển lại tạo ra xã hội hay nói bằng cách khác chính con người tạo ra lịch sử bởi lẽ con người sinh ra và lớn lên đã gắn liền với một quá trình lịch sử với những nấc thang thời đại của nó. Hoạt động lao động sản xuất, sáng tạo văn hoá tinh thần của con người hay nói bằng cách khác là đông đảo quần chúng nhân dân đều gắn liền với tiến trình lịch sử trong qúa trình lao động, đấu tranh để bảo tồn sự sống. Vấn đề đó chính là vai trò của họ. Song trong qúa trình lịch sử triết học có nhiều quan điểm khác nhau trái ngược nhau khi xem xét về vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử xã hội. A. Những quan điểm triết học đương thời và trước Mác : - Trước khi Chủ nghĩa Mác- Lênin ra đời thì triết học của Chủ nghĩa duy tâm và duy vật điều không xác định đúng vai trò quần chúng Nhân dân và vai trò cá nhân trong lịch sử ….. chí luận giải một cách hết sức đương thời. Quan điểm học thuyết tôn giáo cho rằng : Mọi sự thay đổi trong xã hội và do ý chí của đấng tối cao, là o mệnh trời, ý chí đó được cá nhân thực hiện. Quan điểm triết học duy tâm thì cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bệnh ma chúa anh hùng hào kiệt, còn quần chúng Nhân dân chỉ là bật tiêu cực là phương tiện của các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình. Các nhàa duy vật trước Mác trong lĩnh vực lịch sử cũng không thoát khỏi lập trường duy tâm tuy không tin vào thần linh thượng đế nhưng cũng không hiểu được vai trò của quần chúng Nhân dân. Họ cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng đạo đức chân lý vĩnh cữu. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những tư tưởng đề cao vai trò quần chúng Nhân dân nhưng họ không nêu lên được một cách biện chứng khoa học và như thế lại có những quan điểm có tầm nhìn nhận thức được kết cấu xã hội nhưng khi luận giải thì lại hạ thấp vai trò quần chúng Nhân dân như : Không Tử ( 551 – 471 ) trước công nguyên có thể tóm tắc ông là nhà triết học cổ đại Trung Quốc Ông cho rằng trên đời có ba hạn người được xếp theo thứ tự là : Thánh nhân, Quân tử, và tiểu nhân. Thánh nhân là những người tiên tri tiên phắc không cần học cũng biết hết mọi việc trên đời. Quân tử là những người phải học mới biết. Tiểu nhân là những người du dốt có học cũng không biết. Thánh nhân, Quân tử là những ngưê”i thuộc tầng lớp địa chủ quý tộc còn tiểu nhân là quần chúng lao động mà hạng người mà Khổng tử và môn hạ của Ông rất coi khinh, kẻ quân tử không ăn chung một mâm, ngồi cùng chiếu. Khổng tử sống trong xã hội đại loạn nên Ông phản đối đấu tranh với bất kỳ hình thức nào, dù là quần chúng Nhân dân nghèo khổ vùng lên hay giữa giai cấp thống trị với nhau. Nho gia đề cao đạo đức của người trên, người dưới trong quan hệ dưới trên hoà thuận( nhân, nghĩa, trung , hiếu) là nước thiên hạ, trời đất gắn bó với nhau bằng tình cảm lễ nghĩa, nhưng cái chính là giữ được thái bình hoà khí nguyên trạng xã hội tránh đấu tranh xã hội do đó đặc ra những điều kiện nghiêm ngặc cho xã hội đặc biệt là tiểu nhân nhất là phục nữ. Nhằm bảo đảm cho quyền lợi phong kiến và phụ quyền. Khổng tử chủ trương thánh nhân quân tử phải là người thống trị còn tiểu nhân là kẻ bị trị Ông dùng hình ảnh quân tử là gió, tiểu nhân là ngọn cỏ, gió phải bước trên đầu ngọn cỏ …………..có nghĩa là giai cấp thống trị phải đè đầu cởi cổ Nhân dân lao động tuy nhiên trước sự phản kháng của quần chúng lao khổ Khổng tử cũng đã thấy rằng Vua là thuyền dân là nước, nước chở thuyền nhưng cũng có thể nước lật thuyền. Ông đã thấy sức mạnh của Nhân dân nhưng cho rằng đó là sức mạnh tiêu cực, phá hoại sức mạnh đó không phải là sức mạnh xây dựng sức mạnh cách mạng sáng tạo. Mạng Tử ( 572 – 289 ) trước công nguyên là người kế tục của Khổng tử cũng cho rằng Nhân dân là người bị trị và phài nuôi người. Tuy nhiên Ông nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là vai trò phụ thuộc của người cầm quyền. Mà Nhân dân có thể lật đỗ nếu người đó không đáp ứng được nhu cầu đặc ra. Ông cho rằng “ Vua là chư hầu làm hại xã tắc thì thay đổi Ông vua ấy đặc Ông vua khác. Theo ông chỉ có hạng người “ thiêng lại” người được trời sai khiến mới làm được cách mạng dân không có quyền làm cách mạng. Mạnh tử đã rơi vào mâu thuẫn”. Dân là người chở thuyền mà lật thuyền cũng là dân. Và như thế suy cho cùng Khổng tử và Mạnh tử tuy có thấy được vị trí của quần chúng Nhân dân nhưng rất xem thường vai trò của quần chúng Nhân dân và hầu như cả hai ông đều cùng chung quan điểm là vai trò cá nhân hay thần thánh hóa. Sau Khổng tử, Mạnh tử ở phương Đông và một vài nơi khác lại xuất hiện những nhà triết học cổ điển như heghes (1710 -1831 ) Nhà triết học cổ điển Đức theo lập trường duy tâm khách quan Ông cho thế giới có phát triển được cái chính là do tinh thần. Cái tinh thần say mê hứng thú đó nó điều khiển cho tất cả hoạt động. Xem sự vận động phát triển tiến hoá của lịch sử thần bí của thế giới bên ngoài thế giới xiêu nhiên quyết định tuy nhiên Ông cố gắng giải thích một cách biện chứng về vai trò cá nhân vĩ nhân lãnh tụ. Song Ông vẫn đi đến một vấn đề là quần chúng Nhân dân hay cá nhân lịch sử cũng chỉ là sự thể hiện và công cụ của tinh thần thế giới quyền bí nào đó mà thôi. Cùng thời kỳ với heghes, Ông Ca.la.lơ ( 1725-1881) Nhà triết học, nhà văn, nhà sử học người Anh Ông rất sùng bái anh hùng cá nhân ông cho rằng lịch sử thế giới là của các vĩ nhân. Quần chúng Nhân dân chẳng có vai trò nào cả, hạ thấp đến mức tột cùng về vai trò quần chúng Nhân dân ông cho rằng chỉ có vĩ nhân mới là người có lịch sử và quyết định lịch sử quan điểm ấy của ông hết sức phiếm diện xem xét sự vật hiện tượng bằng một cách thiếu khách quan không tàon diện đó là quan điểm duy tâm chủ quan. Nói cho cùng quan điểm duy tâm điều lý luận chỉ có những vĩ nhân là người quyết định lịch sử bênh vực cho chế độ Người bóc lột người các giai cấp bóc lột. Xoá nhoà vai trò quần chúng Nhân dân bên cạnh đó các nhà triết học duy vật trước mác cũng không thoát khỏi lập trường duy tâm trong lĩnh vực lịch sử tuy không tin vào thần linh thượng đế song họ chưa nhận thức được vai trò của quần chúng Nhân dân trong lịch sử và họ cũng cho rằng sự phát triển của lịch sử xã hội là do tư tưởng đạo đức là sự nhận thức cao siêu vĩnh cữu của các vĩ nhân và ngoài ra còn có những tư tưởng đề cao vai trò quần chúng Nhân dân nhưng không nhận thức được một cách khoa học hoặt phủ nhận vai trò vĩ nhân. Ông Chi.e. ry, Mi.nhê, Ghiđô ( đầu thế kỷ 19) Nhà sử học người Pháp với sự ảnh hưởng của cách tư sản Pháp Ông đã đi xa hơn về cách lý giải sự phát triển của xã hội Họ chú ý đến những điều kiên kinh tế xã hội của con người đối với sự phát triển xã hội. Từ đó cho rằng lịch sử xã hội trước khi chủ nghĩa tư bản ra đời là lịch sử của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của đẳng cấp thứ ba mà đứng đầu là giai cấp tư sản chống lại quý tộc. Tuy nhiên họ không giải thích được một cách khoa học về nguyên nhân của đấu tranh giai cấp và chỉ coi đấu tranh giai cấp nó chỉ xảy ra ở chừng mực giới hạn chống lại chế độ phong kiến và thắng lợi của giai cấp tư sản họ chuyển trọng tâm chú ý sang hoạt động có tinh thần tự phát của quần chúng. Họ cho rằng không thể nhìn nhận lịch sử qua hành động của các vĩ nhân. Chính họ tượng trưng hoặc là những dấu hiệu của sự kiện lịch sử. Đó là những quan điểm sâu sắc về sự vận động phát triển của lịch sử, như vậy các nhà duy tân và duy vật trước đây đều không giải thích đúng vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử cũng như mối quan hệ biện chứng của nó và họ đều suy tôn sùng bái vai trò vĩ nhân… Kế thừa những quan điểm duy tân, những tư tưởng tư sản phủ định học thuyết Mácxít, Ông Nítsơ ( 1844 – 1900 ) – nhà triết học người Đức – cho rằng quần chúng là một thứ vật chất chưa định hình, tô vẽ gì cũng được. Quan điểm của ông là căm ghét tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân và sùng bái bạo lực phản ánh mâu thuẫn của giai cấp tư sản ở thời kỳ chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Nítsơ đã khắc lên bộ mặt của những người anh hùng vĩ nhân chung quy là rất lạnh lùng và tàn nhẫn. Theo ông vĩ nhân là đồng nghĩa với vô đạo còn quần chúng nhân dân là kẻ dưới ngu ngốc. Tư tưởng ông phù hợp với quan điểm phát xít. Cùng đồng hành với quan điểm trên còn có nhà xã hội học người Mỹ Strantkhipơ và Perơkhen. Cả hai ông đều xem thường vai trò quần chúng và cho rằng giai cấp công nhân không đủ tư cách để quản lý xã hội. Chính vì lẽ đó, từ quan điểm của các nhà triết học như đã nên trên là toàn bộ những quan điểm chứa đựng đầy rẫy những tư tưởng duy tâm nhìn nhận sự vật hiện tượng bằng một cách biệt lập có đôi khi mang năng bản chất phong kiến cường quyền hoặc phát xít, không thấy được mối quan hệ và sự vận động phát triển của xã hội loài người ( vai trò của quần chúng nhân dân ) trong lịch sử, thần thánh hóa vai trò cá nhân và suy cho cùng là những quan điểm trái ngược với lịch sử vận động và phát triển của xã hội loài người cũng như học thuyết Mác Lênin. B/ - Quan điểm học thuyết Mác Lênin về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử : Trái ngược với những quan điểm triết học khác, học thuyết Mác Lênin ra đời đã lý giải và đã tìm ra chân lý cho con người, cho các tầng lớp, quần chúng nhân dân trong mối quan hệ tồn tại giữa con người và xã hội. Thế giới quan Mác Lênin với phương pháp luận lý giải một cách toàn diện và khoa học về nguồn gốc bản chất con người và tính xã hội đích thực của nó. Từ quan điểm ấy đã phát triển lên vị trí và vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử. Quần chúng nhân dân là đông đảo những người lao động bao gồm các tầng lớp, giai cấp mà hoạt động của họ sẽ làm biến đổi lịch sử. Họ là những người lao động sản xuất cải biến xã hội trong các hình thái kinh tế xã hội có giai cấp đối kháng. Nói ở đây là không bao hàm những nhóm người thống trị, phản dân. Với quan điểm học thuyết Mácxít thì chính quần chúng nhân dân là người sáng tạo và giải quyết vấn đề lịch sử là chính vai trò của họ, và như thế về thực tiễn được chứng minh đó là : - Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội : + Để duy trì cuộc sống con người, vấn đề cơ bản là phải có ăn, ở, đi lại, vui chơi… thì điều tất yếu con người ta phải không ngừng lao động sản xuất mà yếu tố này nó là đặc trưng cơ bản của xã hội loài người với xã hội loài vật bởi loài vật suy cho cùng là chỉ hái lượm, còn loài người lao động sản xuất mang tính cải biến, có sáng tạo, có suy nghĩ và trong sản xuất xã hội thì sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội cho từng cá nhân con người. Chính từ quá trình sản xuất vật chất trong quá trình tác động khách quan, con người ta đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần làm cho xã hội phát triển ngày càng phong phú và đa dạng từ thấp cho đến cao, từ giản đơn đến phức tạp. Như vậy lịch sử xã hội bước khởi đầu chính là sản xuất và sự hình thành của những phương thức sản xuất khác nhau. Sản xuất vật chất chính là quá trình hoạt động cải biến xã hội, lực lượng đó chính là nhân dân lao động với cả trí óc và chân tay. Họ là những người trực tiếp làm ra của cải vật chất nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất họ là những người là ra công cụ lao động và cải tiến công cụ lao động ngày càng tinh xảo hơn, giá trị sử dụng ngày càng cao hơn đồng thời quá trình đó đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng. Nói như thế thực tiễn lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân chính là động lực cho khoa học phát triển và hoạt động khoa học cũng gắn liền với hoạt động của quần chúng nhân dân. Ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thúc đẩy quá trình sản xuất thì quần chúng nhân dân lao động mà trước hết là giai cấp con người, tầng lớp trí thức là lực lượng cơ bản của nền xã hội hiện đại và thực tiễn đã cho thấy nếu nền sản xuất sa sút thấp kém, nếu tài năng trí tuệ của đội ngũ lao động không được phát huy và nâng cao như thế thì quá trình sản xuất vật chất gắn liền với hoạt động của quần chúng nhân dân và chính đó là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội và quyết định sự tồn tại phát triển cho xã hội với những phương thức sản xuất khác nhau. ó Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo ra các giá trị tinh thần : Với quá trình lịch sử quần chúng nhân dân họ không chỉ là một lực lượng sản xuất vật chất cơ bản của xã hội mà họ còn sáng tạo ra văn hoá tinh thần – cái giá trị mà có thể được gọi là linh hồn, là bản sắc của dân tộc. Từ trong lao động sản xuất vật chất trong quá trình tác động khách quan và những suy tưởng đầy sáng tạo được xuất phát từ tâm tư tình cảm con người với xã hội và thiên nhiên, người ta ( quần chúng nhân dân ) đã sáng tạo ra những giá trị tinh thần phong phú đa dạng như dân ca, hò vè, tục ngữ, múa hát, những truyện thần thoại cổ tích và xuất phát từ đó chủ nghĩa Mác Lênin nhấn mạnh : vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự phát triển văn hoá nghệ thuật và đã chứng minh một cách khoa học. Hồ Chí Minh viết : “ Quần chúng nhân dân là những người sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng còn là những người sáng tác nữa. Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Vì thế những giá trị tinh thần do nhân dân sáng tạo, là cơ sở cho sự phát triển văn hoá nghệ thuật. Sự hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở sản xuất ra giá trị tinh thần cho xã hội. Những tâm tư tình cảm, nguyện vọng là cơ sở vô tận cho sự nghiệp sáng tác, xây dựng và phát triển ngày càng cao về văn hoá tinh thần. Song trong điều kiện xã hội phân chia giai cấp, phân công lao động giữa chân tay và trí óc đã làm ngăn trở việc nghiên cứu phát minh khoa học nhưng bên cạnh đó lại có không ít những tài năng cũng xuất thân từ quần chúng lao động. Chính từ những vấn đề nêu trên xét từ nhiều góc độ khác nhau, lực lượng quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò phát triển xã hội với những quá trình lịch sử khác nhau và nó còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị đi đôi với sự giác ngộ của bản thân Nói tóm lại quan điểm học thuyết Mác Lênin khẳng định sự sáng tạo văn hoá tinh thần, vai trò trong sản xuất tinh thần của quần chúng nhân dân là hoàn toàn chân lý và cái văn hoá tinh thần ấy nó được chứa đựng trong tiềm thức ở mỗi con người trong xã hội. => Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản cho mọi cuộc cách mạng xã hội : - Trong lịch sử xã hội, phương thức sản xuất là sự hiện diện của một chế độ và nó sẽ bị phá vỡ khi một trong hai yếu tố lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất bị sai lệch nhau thì điều tất yếu sẽ dẫn đến sự phá vỡ quan hệ sản xuất và xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp hơn. Sự phá vỡ đó chính là mâu thuẫn giữa lưc lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong khi xã hội có giai cấp, vấn đề phá vỡ đó điều tất yếu phải bằng một cuộc cách mạng xã hội, thay thế bằng một phương thức sản xuất mới cách mạng và tiến bộ hơn. Chính vì thế trong mọi cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp bị áp bức bóc lột chộng lai giai cấp bóc lột là động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Quần chúng nhân dân bao giờ cũng là một lực lượng cách mạng xã hội trong cuộc đấu tranh cách mạng. Để thay thế một hình thái kinh tế xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Đúng vậy, đấu tranh và sự giác ngộ cách mạng của họ ngày càng phát triển, được tập hợp tạo thành một lực lượng cách mạng đông đảo. Trong thời kỳ bão táp cách mạng tinh thần anh dũng, trí sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy mạnh mẽ cao độ. Lênin chỉ rõ : cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức bóc lột. Không lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người sáng tạo trật tự xã hội mới tích cực như trong thời kỳ cách mạng, trong thời kỳ như thế nhân dân có thể làm được những kỳ công. Chính vì lẽ đó sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân, không phải là sự nghiệp của riêng cá nhân. Nếu không có sự tham gia của quần chúng nhân dân thì không thể làm chuyển biến cách mạng. Đây là một vấn đề hoàn toàn chân lý. Nó hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người. => Vai trò của cá nhân trong lịch sử : Ở bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào, điều tất yếu phải co nhân tố lãnh đạo, nhân tố lãnh đạo đó là những cá nhân là người lãnh tụ, vĩ nhân anh hùng, là người đứng đầu tổ chức lãnh đạo đại diện cho ý chí nguyện vọng và lợi ích của quần chúng. Họ là những người nhìn xa trông rộng, có nhật thức sâu sắc toàn diện, có lý tưởng cách mạng vì dân, vì nước, giúp đỡ dìu dắt xây dựng phong trào quần chúng đi đúng hướng. Có khả năng nắm bắt lịch sử, đề ra những đường lối đúng đắ, lựa chọn thời cơ, tìm ra những mục tiêu phù hợp dẫn dắt quần chúng tiến hành cách mạng. Vai trò cá nhân lãnh tụ còn phải có năng lực tổ chức lôi kéo tập hợp quần chúng, gầy dựng phong trào quần chúng và thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ. Có thể nói vai trò cá nhân lãnh tụ ảnh hưởng to lớn đến mức độ, chừng mực của quá trình phát triển lịch sử cách mạng. Lênin đã nói : “ Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị nếu nó không tạo ra được hàng ngũ của những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức lãnh đạo phong trào”. Những cá nhân ưu tú, những lãnh đạo thiên tài đều xuất hiện từ các phong trào cách mạng quần chúng và điều tât yếu khi lịch sử cần thì sẽ xuất hiện những cá nhân ưu tú, những anh hùng hào kiệt. Song giữa vai trò quần chúng nhân dân và vai trò cá nhân có mối quan hệ chăt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Cá nhân ưu tú, lãnh đạo thiên tài là sản phẩm của thời đại, được sinh ra từ các phong trào cách mạng quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa Mác Lênin xem cá nhân trong mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân trong đó quần chúng quyết định nhưng vai trò cá nhân lại có ảnh hưởng to lớn đến quy mô và tốc độ của tiến trình lịch sử. Từ đó học thuyết Mác Lênin luôn chống lại tệ sùng bái cá nhân xem nhẹ vai trò quần chúng. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được quan điểm học thuyết Mác Lênin lý giải một cách biện chứng và khoa học và nó còn có ý nghĩa cách mạng Trần Văn Thời lớn trong nhận thức thực tiễn, đã được lịch sử loài người chứng minh. 3/ - Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử : * Về tư tưởng Hồ Chí Minh : - Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người giàu lòng yêu nước thương dân. Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc và cũng là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta lãnh đạo nhân dân thực hiện công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Ở tư tưởng Hồ Chí Minh cho ta thấy với lòng yêu nước nó thể hiện ơ tính nhân văn và nhân đạo của người chiến sĩ cộng sản. Lúc còn sống lãnh đạo hoạt động cách mạng Người thường tâm niệm: “ Tôi chỉ có một ý muốn tột cùng là đất nước ta hoàn toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được đi lại học hành”. Chính từ quan điểm trên nhìn từ góc độ lãnh tụ, Hồ Chí Minh luôn luôn có tư tưởng vì dân vì nước. Người xem nhân dân là cái gốc cái nôi của cách mạng và người thường dạy : “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Quan điểm ấy đã xác định rõ vai trò vị trí của quần chúng nhân dân, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Mục tiêu lý tưởng của Bác đã vạch ra chỉ có thể thực hiện được bởi con người, bởi toàn thể nhân dân và đội ngũ tiên phong được giác ngộ về lý tưởng và đạo đức, được trang bị những kiến thức cần thiết trong quá trình đưa lý tưởng vào nhân dân, dẫn dắt nhân dân. Bác luôn luôn nhấn mạnh vai trò của quần chúng nhân dân và sức mạnh của khối Đại Đoàn kết dân tộc. Bác quan niệm rằng dân là qúy nhất, là quan trọng nhất. Bác viết: “ Trong bầu trời không có cái gì qúy bằng dân, trong thế giới không có cái gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hay: “ Ở xã hội muốn thành công phải có ba điều kiện : Thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi và địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào?. Nhân hòa là mọi người đều nhất trí. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”. Trong tác phẩm “ Đường cách mệnh” Bác viết: “ Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công phải lấy dân chúng làm gốc ( công nông ). Bác lý giải và nhấn mạnh “ dân chúng đồng lòng thì việc gì cũng làm được, dân chúng không ủng hộ thì việc gì cũng chẳng nên”, “ Nuớc lấy dân làm gốc” “ Gốc có vững cây mới bền”. Với những quan niệm trên Bác đã khẳng định nhân dân là chủ nhân của đất nước, mọi công việc ta đều phải xuất phát từ ở nơi dân bởi họ là những người là ra của cải vật chất cho xã hội, họ có một lực lượng đông đảo. Hay trong quan điểm về xây dựng nhà nước ta Bác chỉ rõ : “ Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân và vì dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Song bên cạnh đó Bác còn nhắc nhở rằng dân có quyền hạn nhưng phải có nghĩa vụ bổn phận công dân của mình. Với quan niệm của Bác, cách mạng chính là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân cần có Đảng dẫn đường, muốn thành công cách mạng cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Bác nhiều lần nhấn mạnh: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. Từ quan điểm trên Người cho rằng sự đoàn kết nhất trí là sức mạnh, là ý chí, là niềm tin để làm cơ sở cho sự thành công của cách mạng. Hay trong xây dựng Đảng ta, Bác khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chính trị găn bó máu thịt với dân, phải được dân tin yêu và kính trọng. Bác chỉ rõ : “ Đảng ta vĩ đại là vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Do đó phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Quan điểm trên Bác đã chỉ rõ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân, Đảng ta là người dẫn lối đưa đường và cũng khẳng định quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội. Đồng thời Bác phê phán nghiêm khắc tư tưởng “ quan cách mạng”, thái độ hống hách mệnh lệnh đối với quần chúng nhân dân. Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng nhân dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó có giá trị lớn lao cho việc xây dựng đường lối cách mạng trước mắt cũng như lâu dài. - Quan điểm Đảng ta về quần chúng nhân dân. Đảng Cộng Sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, lấy chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Trãi qua mấy mươi năm lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn khẳng định đúng đắn vai trò cách mạng của quần chúng nhân dân. Từ Đại hội khóa III tháng 9/1960 đến khóa IV năm 1976, Đảng ta luôn đưa ra quan điểm về xây dựng khối Đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Văn kiện Đại hội V của Đảng khẳng định : Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì thế tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng, xây dựng phong trào cách mạng quần chúng trở nên là vấn đề trọng tâm thường xuyên và liên tục và nó còn có ý nghĩa to lớn cho công cuộc từ qúa độ đi lên xây dựng XHCN ở nước ta. Từ cơ sở quan điểm đđường lối của Đảng như đã nêu trên đã tạo ra một khuynh hướng chính trị mạnh mẽ và trở t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHọc thuyết mác- lênin về con người và vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử.doc
Tài liệu liên quan