Tiểu luận Khảo sát ngữ âm Kinh Môn - Hải Dương

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 4

1. Lý do chọn đề tài 4

2. Đối Tượng 4

3. Mục đích nghiên cứu 4

4. Phương pháp nghiên cứu 5

4.1. Phương pháp nghiên cứu chung 5

4.2. Phương pháp cụ thể 5

4.3. Tiến hành thực tế 6

4.4. Xử lý tư liệu 6

NỘI DUNG 7

1. Vài nét về địa bàn huyện Kinh Môn 7

2. Quan niệm về thổ ngữ 8

3. Khảo sát cụ thể 8

3.1. Thanh điệu 8

3.2. Âm đầu 9

3.3. Lẫn lộn phụ âm đầu 10

4. Âm chính 12

4.1. Tương ứng giữa “ă” và “â” 13

4.2. Nguyên âm ưu iu 13

4.3. Nguyên âm “ươ iê” 14

4.4. Âm ô  u 14

4.5. Có sự nhầm lẫn giữa “ư” và “â” 15

4.6. Nguyên âm /e/ biến thành /ie/ 15

4.7. Biến đổi “iê” thành “ê” 16

5. Âm cuối 16

KẾT LUẬN 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1943 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Khảo sát ngữ âm Kinh Môn - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khảo sát ngữ âm Kinh Môn - Hải Dương LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngôn ngữ, người dân địa phương tại địa bàn khảo sát và các bạn trong lớp đã tận tình giúp đỡ em để em hoàn thành tốt báo cáo này. Trong quá trình khảo sát và viết báo cáo, không thể tránh khỏi những thiếu sót, vậy em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bản báo cáo này. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN KINH MÔN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tiếng việt là một ngôn ngữ vừa thống nhất, vừa đa dạng. Tính thống nhất nằm trong bản chất của ngôn ngữ, cái làm cho nó được gọi là tiếng việt, còn ở mặt biểu hiện khi thỡ nó là ngôn ngữ văn học mềm mại và uyển chuyển, khi thì tiếng địa phương mang nặng dấu ấn quê hương của từng vùng, miền. Chính vì thế, phương ngữ học chú ý đến nét khác biệt của một phương ngữ, thổ ngữ so với ngôn ngữ toàn dân và vùng quanh nó, tìm ra sự khác nhau chứ không phải có một thành kiến nào hết. Phương ngữ học, nghiên cứu sự khác nhau, để tìm ra quy luật đi đến sự thống nhất. Ở nước ta, nghiên cứu phương ngữ vẫn rất cần thiết đi vào đặc điểm của từng thổ ngữ trong những vùng lớn, đi sâu tìm hiểu, miêu tả nó một cách trọn vẹn hoàn chỉnh Trong thực tế nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thổ ngữ Kinh Môn có rất nhiều điểm tương đồng và khác biệt với các cùng khác trong tỉnh Hải Dương Và những vùng xung quanh. Cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về tiếng nói của người dân nơi đây. Vì vậy mà bài viết của chúng tôi khảo sát mặt ngữ âm tức là phát âm của người dân Kinh Môn. 2. Đối Tượng Đối tượng mà chúng tôi khảo sát trong bài báo cáo này là tiếng nói của người dân đang sinh sống trên địa bàn huyện Kinh Môn. Đặc biệt là tiếng nói của người dân bản địa, với đủ mọi tầng lớp, lứa tuổi và trình độ khác nhau: bao gồm các ông cụ (bà cụ) già, nam, nữ thanh niên, trẻ em….. 3. Mục đích nghiên cứu Như chúng tôi đã trình bày, trong báo cáo này chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát thổ ngữ huyện Kinh Môn vào thời điểm hiện tại, tức là tìm hiểu thổ ngữ hiện tại của huyện Kinh Môn. Nghiên cứu thổ ngữ huyện Kinh Môn, chúng tôi nhằm miêu tả chân thực bức tranh phương ngữ huyện Kinh Môn (Hải Dương), qua đó mọi người có được cái nhìn toàn vẹn nhất về một vùng phương ngữ. Nghiên cứu thổ ngữ huyện Kinh Môn còn có ý nghĩa quan trọng sẽ mặt thực tiễn, đối với chính người dân nơi đây. Trước hết nó có thể giúp cho việc dạy và học tiếng Việt trong nhà trường được tốt hơn vì học sinh cần phải biết được và hiểu được mối quan hệ giữa thổ ngữ của nơi mình đang sinh sống với ngôn ngữ chuẩn qua đó hướng tới việc chuẩn hoá tiếng Việt. Đồng thời, nghiên cứu ngôn ngữ Kinh Môn còn góp phần tìm hiểu và giữ gìn bản sắc văn hoá của người dân địa phương. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu chung Để có được tư liệu cho bài viết này chúng tôi đã được trực tiếp đi tới địa bàn để thu thập những thông tin cần thiết cho quá trình nghiên cứu. Phương pháp phỏng vấn: +/ Trực tiếp hỏi người dân ở địa phương xem họ có thể phát hiện ra đặc trưng của tiếng nói của họ hay không ( chúng tôi gọi là phỏng vấn chính thức) +/ Bằng cách hỏi thăm nói chuyện tự nhiên rồi bí mật ghi âm (chúng tôi gọi là phỏng vấn không chính thức). 4.2. Phương pháp cụ thể - Bản đồ, máy ghi âm.. - Khảo sát địa bàn: +/ Phạm vi, lãnh thổ, vị trí địa lí. +/ Tình hình dân cư. +/ Vài nét về văn hoá xã hội, ngôn ngữ. - Chọn tư liệu viên (Theo độ tuổi) +/ Từ 1 đến 15 tuổi +/ Từ 15 đến 35 tuổi +/ Từ 35 tuổi trở nên. Chúng tôi chọn theo lứa tuổi để có cái nhìn toàn diện về tiếng nói của người dân Kinh môn, đồng thời qua đó để có thể thấy được sự biến đổi của tiếng nói của vùng này hiện nay( với đại diện là lớp người trẻ tuổi) so với trước đây (với đại diện lớp người cao tuổi). Trong đó, chúng tôi lấy trọng tâm nghiên cứu là nhóm tư liệu viên từ 15 đến 35 tuổi bởi ở lứa tuổi này đã bắt đầu hoàn chỉnh và định hình về tiếng nói của mình. Trong quá trình chọn tư liệu viên chúng tôi chọn những người là cư dân bản địa, ít di chuyển xa địa bàn cư trú để đảm bảo tiếng nói của họ là tiếng nói gốc, không bị pha tạp nhiều thứ tiếng khác. Họ cũng là những người còn lưu giữ được nhiều đặc trưng của tiếng nói Kinh Môn trước đây làm nên đặc trưng của thổ ngữ Kinh Môn. 4.3. Tiến hành thực tế Chúng tôi sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp thông qua hình thức rất quen thuộc đó là hỏi thăm trò chuyện. Bằng cách này chúng tôi hướng câu chuyện vào những vấn đề xoay quanh cuộc sống sinh hoạt, công việc… của người dân nơi đây để tạo ra một tâm lý thoải mái và gần gũi.Trên cơ sở này chúng tôi có thể tìm ra được sự khác biệt về mặt ngữ âm của người dân Kinh Môn so với các vùng lân cận và với ngôn ngữ toàn dân. Trong khi nói chuyện chúng tôi đã lồng những từ cần kiểm tra vào trong cuộc trò chuyện, trong các câu hỏi để họ phát âm một cách tự nhiên. 4.4. Xử lý tư liệu - Nghe băng ghi âm - Thống kê tư liệu - Mô tả cụ thể sự khác biệt trong cách phát âm của từng khu (phía bắc và phía nam) - So sánh với các vùng xung quanh và với ngôn ngữ toàn dân.Trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét bước đầu. NỘI DUNG 1. Vài nét về địa bàn huyện Kinh Môn Xét về vị trí địa lí, bản thân Kinh Môn nằm trên giao điểm tiếp giáp Phía Bắc giáp với huyện Đông Triều (Quảng Ninh Quảng Ninh), - Phía Nam giáp với huyện Thanh Hà và huyện Kim Thành. Phía Đông giáp với huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng). Phía Tây giáp với huyện Chí Linh và một phần huyện Nam Sách. Kinh Môn là một vùng đất cổ mà các vùng văn hoá việt cổ chính là vùng sự bảo lưu các giá trị trong gia đình và dòng tộc mạnh hơn rất nhiều các gia đình có xu hướng hội nhập. Chính điều đó đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần mạnh mẽ để người dân nơi đây bảo tồn những nét riêng của mình. Đây là một làng việt cổ. Điều này còn lưu giữ lại trong cách đặt tên các xã ở đây như An Sinh, nơi đây có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu; Phạm Mệnh: Vùng đất quê ông Phạm Sư Mạnh, Thượng Quận. Đất phong của một vị quận công đời hậu Lê (Lê Túc Tông), Đình Huề Trì được xây dụng từ thế kỉ XVI thờ một vị danh tướng thời Lê đã được cấp chứng nhận di tích lịch sử. Nơi đây còn tồn tại một hệ thống ngữ âm và từ vựng có mức độ “đậm đặc” hơn ở một số vùng khác, là một nơi có một vùng ngữ âm đặc thù nhưng quá trình bảo lưu rất khó. Hiện nay hệ thống ngữ âm và từ vựng đang bị phổ cập hoá theo hướng chuẩn của ngôn ngữ toàn dân. Kinh Môn là một vùng có vị trí hết sức quan trọng là một điểm nút quan trọng của ngã ba tam tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh (cách Hải Phòng một con sông Đá Lạc và cách Quảng Ninh một con sông Kinh Thầy) nên quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá hết sức tự nhiên. Trong quá trình giao lưu đó đã để lại những trầm tích ngôn ngữ mà vốn ở vùng này lại phát sinh ở vùng khác. Do đó, trong thổ ngữ Kinh Môn có sự trùng hợp về ngữ âm, từ vựng với một số vùng ở Hưng Yên, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và một số vùng khác của phương ngữ Bắc. Từ những đặc điểm đó Kinh Môn ngày nay hiện còn lưu giữ rất nhiều dấu ấn địa phương trong ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày. 2. Quan niệm về thổ ngữ Phương ngữ là một biến thể của ngôn ngữ toàn dân ở một vùng lãnh thổ tương đối rộng: Một tỉnh, một khu vực (liên tỉnh). Song đến lượt phương ngữ còn có những biến thể khác nhau trên phạm vi lãnh thổ mà nó bao chứa. Tác giả Hoàng Thị Châu khảng định: “Phương ngữ thổ ngữ là biến thể địa phương của ngôn ngữ. Phương ngữ là một biến thể trong một vùng lớn, còn thổ ngữ là những biến thể ngôn ngữ ở địa phương nhỏ hơn”. Nếu ta hiểu theo khía cạnh thao tác thì thổ ngữ hoặc phương ngữ là biến thể địa phương của ngôn ngữ gồm một chùm những nét khu biệt phương ngữ thổ ngữ này so với phương ngữ, thổ ngữ khác, cũng như so với ngôn ngữ toàn dân. Như vậy, không nhất thiết hai thổ ngữ phải khác nhau nhiều mà chỉ cần một vài nét khu biệt nhỏ cũng đủ để tự khẳng định mình và khu biệt với nhau. Như vậy, xét về phạm vi hoạt động, thổ ngữ được dùng trong phạm vi địa lý hẹp hơn: một thôn, một xã, một huyện (cũng có khi lớn hơn). Về khả năng hành chức thì chức năng của thổ ngữ bao giờ cũng hẹp hơn so với phương ngữ và đương nhiên là hẹp hơn so với ngôn ngữ toàn dân về đặc điểm cấu trúc, thổ ngữ là biến thể của ngôn ngữ toàn dân về ngữ âm, từ vựng. Xét về mặt lịch sử không có gì phức tạp hơn sự phân bố các thổ ngữ ở Việt Nam. Nhìn bề ngoài, chúng ta có một bức tranh vô cùng đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp và rắc rối. Có những vùng có rất nhiều thổ ngữ như vùng châu thổ Sông Hồng. Song lại có những vùng hầu như không có thổ ngữ, cả một vùng, bao gồm một diện tích rộng lớn mà chỉ có một phương ngữ thống nhất như đồng bằng Nam Bộ… Thổ ngữ Kinh Môn mà chúng tôi khảo sát nằm trong vùng phức tạp nói trên. Thổ ngữ phản ánh sự trung thực tính chất biệt lập tương đối của làng xã Việt Nam. Có thể nói, vì biệt lập mà có những thổ ngữ, như ở Kinh Môn. Nhưng sự biệt lập này mang tính tương đối, vì nó vẫn có những biến đổi theo xu hướng chung của thời đại. 3. Khảo sát cụ thể 3.1. Thanh điệu Theo như công trình nghiên cứu khoa học có quy mô thì phương ngữ của Hải Dương (trong đó có Kinh Môn) thuộc vùng phương ngữ Hà Nội và các tỉnh xung quanh nó. Do đó, nó mang những đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc. (Tiếng Việt trên các miền đất nước Hoàng Thị Châu. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1989). Vì thế mà nó không có gì khác biệt so với phương ngữ Bắc. 3.2. Âm đầu Phụ âm đóng vai trũ õm đầu, phụ âm đầu chiếm vị trí cố định ở đầu âm tiết, là một trong những thành phần chủ yếu của âm tiết. Nó tương đối độc lập với các thành phần khác của âm tiết, như thanh điệu và vần. Nó có thể đứng trước mọi nguyên âm, và đi với mọi thanh điệu. Tiếng Việt hiên nay có 22 phụ âm, làm nhiệm vụ âm đầu (bao gồm cả âm tắc thanh hầu), ở mỗi địa phương khác nhau thì số lượng phụ âm đầu không giống nhau trong cách phát âm ở phương ngữ Bắc hệ thống phụ âm đầu: có 20 âm vị phụ âm đầu, không có những phụ âm ghi trong chính tả là s, r, gi, tr, tức là không phân biệt s/x, r/d/gi, tr/ch , không có các phụ âm quặt lưỡi :[s,z,t ] Kinh Môn (Hải Dương) cũng là vùng thuộc phương ngữ Bắc, nên nó cũng mang những đặc trưng ngữ âm của vùng này đó là: - Hệ thống phụ âm đầu: Có 20 âm vị, không có những phụ âm ghi trong chính tả là s, r, gi, tr, tức là không có sự phân biệt s/x, r/d/gi, ch/tr… Trong hệ thống phụ âm đầu của thổ ngữ Kinh Môn cũng không có 3 phụ âm đầu quặt lưỡi /tr, s, r/. Trong mọi trường hợp đều được phát được âm thành /ch, x, d/. Điều này rất phổ biến trong phương ngữ Bắc. Tiếng Kinh Môn cũng không phân biệt các phụ âm đầu/r, d, gi/ khi phát âm người dân trong huyện (cả khu Bắc và Nam) đều phát âm thành d /z/. Ví dụ: bản rủn ® bản dủn; bối rối ® bối dối; run rẩy ® dun dẩy; rầm rập ® dầm dập rả rích ® dả dích; rung rinh ® dung dinh…. Ngoài ra trong ngữ âm của Kinh Môn có những khác biệt so với toàn vùng như sau: 3.3. Lẫn lộn phụ âm đầu * Lẫn lộn d/r Đây là một đặc điểm khá nổi bật ở nam Kinh Môn.Khi phát âm một số từ thì d biến thành r. ví dụ: con dao® con rao hậu duệ® hậu ruệ. Ở lớp người cao tuổi (50 tuổi) còn có hiện tượng nhầm lẫn giữa tr/th/s/t. Ví dụ: trại sơn ® tại sơn; sơn sớt ® thơn thớt…. Tuy nhiên, chúng tôi phải khảng định một điều là, hiện tượng này chỉ xảy ra ở lớp người cao tuổi trong huyện và những hiện tượng như trên là rất ít và chỉ xảy ra ở một số từ cơ bản chưa không phải trong tất cả mọi trường hợp.Tức là không phải trong tất cả mọi trường hợp có “d” đều biến thành “r”,”tr” thành “t” hay “s” thành “th. Hiện tượng này chỉ xảy ra với từ “sơn sớt” mà không xảy ra với một số từ khác. Ví dụ: Sang sông khi phát âm thì không có hiện tương biến đổi thành “Thang thông”. Hiện tượng này chỉ xảy ra phổ biến ở phía Nam và ở lớp người cao tuổi mà không xảy ra nhiều ở phía Bắc là do Nam Kinh Môn là vùng đất cổ. Nơi đây các giá trị truyền thống được bảo lưu hết sức mạnh mẽ. * Lẫn lộn l- n. Một hiện tượng, cũng rất đáng chú ý đó là sự lẫn lộn giữa n và l. Trong hệ thống phụ âm đầu của Kinh Môn. Hầu hết người dân trong huyện thường xuyên sử dụng lẫn lộn giữ phụ âm n và n. Khi phát âm thì chúng tôi nhận thấy các âm “n” ® “n”. Tức là “n” có xu hướng bị thay thế bằng “l”. Ví dụ: gian nan ® gian lan; giãy nảy ® giãy lảy; ảo não ® ảo lão; éo néo® éo léo non nước ® lon lước… Trong câu “đi Hà Nội lối nào anh ơi”? Người dân Kinh Môn sẽ phát âm ® “đi Hà lội lối lào anh ơi”? hầu như là phụ âm “n” không được dùng. Điều này có phần khác biệt so với những vùng xung quanh nó. Trong khi đó vùng Thuỷ Nguyên, An Hải (Hải Phòng) cùng một câu trên họ sẽ phát âm thành “đi Hà Nội nối nào anh ơi”? Tức là ngược lại họ không phát âm được “l”. Hay ở Đông Triều (Quảng Ninh) cũng là câu ấy họ sẽ phát âm thành “đi Hà Nội nối lào anh ơi”.Hay “đi Hà Nội lối lào anh ơi” ?. Tức là cả hai biến thể l và n đều được sử dụng. Trong một âm tiết người ta có thể dùng hai biến thể này. - Âm “n” ® “l” Tiếng toàn dân Thổ ngữ Kinh Môn Gian nan Gian lan Nức nở Lức lở Náo nức Láo Lức Lúa nếp Lúa lếp ảo não ảo lão Cà Nén Cà lén Long lanh Long lanh Lý Luận Lý Luận Do không phân biệt được cách phát âm của hai phụ âm này, nên để phân biệt người ta dùng khái niệm cao/thấp để phân định chúng: Phụ âm “l” ® “l” cao: “n”® “n” thấp. Ta thấy hiện tượng lẫn lộn “l” và “n” là một trong số các hiện tượng ngữ âm khá đặc biệt của các địa phương ở Miền Bắc nước ta. Theo chương trình điều tra tổng thể Tiếng Việt năm 1999 – 2000 của viện Ngôn Ngữ Học thì việc sử dụng lẫn lộn giữa phụ âm “l” và “n” là một hiện tượng xảy ra khá phổ biến ở khắp các tỉnh thuộc miền Bắc nước ta bắt đầu từ Quảng Ninh đến Ninh Bình. Trong thổ ngữ Kinh Môn thì hiện tượng lẫn lộn “l” và “n” diễn ra rất phổ biến ở cả Phía Nam và Phía Bắc hầu khắp mọi lứa tuổi và nghề nghiệp. Tuy nhiên đây không phải là một hiện tượng nói nhịu mà là một hiện tượng phương ngữ. 4. Âm chính Nguyên âm là phần âm chính của tiếng việt cùng với các thanh điệu tạo thành hai thành phần nhất thiết phải có trong bất kì một phụ âm nào. Tiếng việt có 16 nguyên âm có khả năng làm âm chính sau đây: STT Âm vị Con chữ STT Âm vị Con chữ 1 /a/ a 9 /u/ U 2 / / â 10 / / ư 3 /i/ i, y 11 O (-ng, k ) 4 /e/ ê 12 /ă/ ă 5 / / E 13 a(-nh, -ch ) 6 /o/ ô 14 /ie/ ia,ie 7 / / O 15 ươ,ưa 8 // ơ 16 /uo/ uô,ua Về mặt số lượng nguyên âm cũng như sự phân bố của nó thì thổ ngữ Kinh Môn không có gì khác biệt so với hầu hết toàn dân. Tuy nhiên, xét về mặt thể hiện các âm vị thì thổ ngữ Kinh Môn lại có những điểm không hoàn toàn giống với tiếng của các vùng khác và tiếng toàn dân đó là: 4.1. Tương ứng giữa “ă” và “â” khi phát âm có sự tương ứng giữa nguyên âm “ă và â”. Trong giao tiếp hàng ngày, người dân nơi đây (đặc biệt là lớp người trung niên trở lên) thường có sự đồng nhất này Ví dụ: Bảo ® bẩu Màu sắc ® mầu sắc giàu có ® giầu có dạy học ® dậy học chạy nhảy ® chạy nhẩy… Hiện nay những âm tiết như trên được sử dụng ở cả 2 dạng: Lớp người trung tuổi thường sử dụng những âm tiết có nguyên âm “ â” nhiều hơn, còn lớp trẻ có xu hướng sử dụng nguyên âm có “ă” nhiều hơn.Hiện tượng này không xảy ra nhất loạt trong mọi từ mà chỉ xảy ra trong một số từ hạn chế.Không phải từ nào có nguyên âm “ ă” khi phát âm cũng trở thành “â”. Ví dụ: Không thể chuyển “ă” thành “â” trong những trường hợp sau: Cái chăn Lăng xăng Loắt choắt Hắt hiu… 4.2. Nguyên âm ưu® iu Một hiện tượng khác rất phổ biến ở cả phía bắc và phía nam Kinh Môn đó là khi phát âm nguyên âm “ ưu ® iu”. Tiếng toàn dân Thổ ngữ Kinh Môn Trừu tượng Trìu tượng Hưu trí Hiu trí Lưu lạc Liu lạc Tựu trường Tịu trường Nghiên cứu Nghiên cíu Sưu thuế Siu thuế Ngưu lang Ngiu lang Đây cũng là đặc điểm chung giống với các vùng xung quanh ở Hưng Yên, Hải Phòng,Quảng Ninh. 4.3. Nguyên âm “ươ® iê” Tiếng toàn dân Thổ ngữ Kinh Môn Chai rượu Chai diệu Bướu cổ Biếu cổ Con Hươu Con hiêu Con Khướu Con khướu Bắt chước Bắt chiếc Hiện tượng này không phải chỉ ở riêng Kinh Môn mới có mà nó xảy ra ở hầu hết các vùng xung quanh nó như Đông Triều (Quảng Ninh), Thuỷ Nguyên, An hải (Hải Phòng), Kim Thành (Hải Dương). Và một số vùng khác ở Hưng Yên và Thái Bình, điều này có thể diễn tả là do vị trí địa lí Kinh Môn nằm ở ngã ba tỉnh là Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Nằm trên trục giao lưu của hai vùng văn hoá lớn là Hà Nội và Hải Phòng nên nó thuộc vùng “Ngữ âm miền đông”. Vì vậy mà trong phát âm của người dân Kinh môn có những điểm giống với ngữ âm toàn dân. Tuy nhiên, khi đi sâu vào nghiên cứu thổ ngữ Kinh Môn, chúng tôi nhận thấy có một số nguyên âm trong tiếng nói của vùng khác với tiếng nói toàn dân. Nhưng không phải trong âm tiết nào cũng xảy ra sự biến đổi âm vị như vậy mà chỉ trong những kết hợp cụ thể mới có hiện tượng này. 4.4. Âm |ô| ® |u| Đây là đặc trưng nổi bật nhất ở thổ ngữ Kinh Môn khi xét trên phương diện nguyên âm của âm tiết. Hầu hết mọi người trong huyện cả ở phía bắc và phía nam khi phát âm đều chuyển âm |ô| ® |u|. Ví dụ: Tiếng toàn dân Thổ ngữ Kinh Môn Thổi lửa Thủi lửa Cơm sôi Cơm sủi Cái chổi Cái chủi Quả ổi Quả ủi Trao đổi Trao đủi Nóng hổi Nóng hủi Đây là hiện tượng có tính phổ biến rất cao. Nó xảy ra ở hầu hết mọi lứa tuổi và ở một trình độ văn hoá nhất định vẫn dùng.Tuy vậy không phải trong tất cả các từ.Người ta có thể nói “thổi lửa” thành “thủi lửa” hay “cơm sôi” thành “cơm sủi” nhưng nấu xôi hay cây sồi thì vẫn là như thế mà không có sự biến đổi. 4.5. Có sự nhầm lẫn giữa “ư” và “â” Trong thổ ngữ Kinh Môn còn có hiện tượng phát âm “ư® â”. Tuy nhiên đây không phải là một hiện tượng phổ biến. Hiện tượng này chỉ còn đượcgiữ lại trong cách phát âm của những người lớn tuổi, ít thấy xuất hiện ở những đối tượng trong độ tuổi đi học hay những đối tượng có tiếp xúc quan hệ xã hội rộng. Hiện tượng này xảy ra ở cả phía nam và phía bắc. Bởi phía nam Kinh Môn là vùng đất cổ nơi có rất nhiều làng Việt Cổ còn lưu giữ lại dấu ấn của tiếng Việt Cổ. Phía bắc là vùng công nghiệp nơi tập trung dân cư kháp nơi. Do đó trong quá trình giao lưu, tiếp xúc dấu ấn khác biệt ngôn ngữ ngày càng mờ đi. Người ta thường hướng tới cái chuẩn trong phát âm hơn. Ví dụ: Tiếng toàn dân Thổ ngữ Kinh Môn Đứt tay Đất tay Cắt đứt Cắt đất Bứt rứt Bất rất 4.6. Nguyên âm /e/ biến thành /ie/ Sự biến đổi này không thể hiện ở con chữ, chỉ khi nghe một người Kinh Môn phát âm chúng tôi mới phát hiện ra điều này. Ví dụ: “Mẹ” M iẹ tôi năm nay 50 tuổi rồi. “Em” Em là con nhà ai? “Con Mèo” Con M ièo nhà bác Na đấy. … Chúng tôi nhận thấy rằng, sự biến đổi này không chỉ ở riêng Kinh Môn mà nó trải đều trên khắp một vùng rất rộng lớn ở quanh nó như ở An Hải, Thuỷ Nguyên (Hải Phòng).Vì vậy mà nó đã trở thành một nét đặc trưng tiêu biểu của vùng đất Kinh Môn.Chúng tôi xin nhấn mạnh rằng đặc điểm này chỉ thể hiện trong cách phát âm chứ không thể hiện trên chữ viết.Nó xảy ra cả ở khu bắc và khu nam với tất cả mọi lứa tuổi và ở một trình độ văn hoá nhất định. 4.7. Biến đổi “iê” thành “ê” Trong thổ ngữ Kinh Môn còn xuất hiện một số trường hợp biến đổi về ngữ âm khi sử dụng trong sinh hoạt như: Nắm điều ® nắm đều Nói nhiều® nói nhều Nhiều chuyện® nhều chuyện. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở riêng Kinh Môn mà chúng ta có thể gặp trong cách phát âm của những vùng xung quanh như Kim Thành (Hải Dương), Kim Động (Hưng Yên), Đông Triều (Quảng Ninh)… Tuy vậy hiện tượng trên chỉ xảy ra với những người cao niên và trung niên,còn lứa tuổi thanh thiếu niên được giao lưu, tiếp xúc với các phương tiện thông tin đại chúng và được chuẩn hoá trên ghế nhà trường nên các em ít mắc phải những trường hợp biến đổi nói trên. 5. Âm cuối Về mặt số lượng âm vị và cách thể hiện các âm cuối của thổ ngữ Kinh Môn không có gì khác so với tiếng toàn dân. Trong thổ ngữ Kinh Môn có đầy đủ các âm cuối ghi trong chính tả. KẾT LUẬN Qua những miêu tả được trình bày như trên chúng tôi đi đến một số kết luận như sau: Thổ ngữ Kinh Môn có nhiều đặc điểm tương đồng khi đặt trong mối quan hệ với các thổ ngữ nói riêng như ở Hưng Yên, Thái Bình, Hải Phòng và trong phạm vi phương ngữ bắc nói chung. Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy thổ ngữ Kinh Môn hiện nay có những đặc điểm sau: - Về thanh điệu: Thanh điệu ở Kinh Môn không có gì khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân. Nó cũng bao gồm 6 thanh ( Không dấu, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.) - Hệ thống phụ âm đầu: Phụ âm đầu trong thổ ngữ Kinh Môn cũng giống như hệ thống phụ âm đầu của phương ngữ bắc tức là cũng bao gồm 20 âm vị, không phân biệt 3 phụ âm quặt lưỡi là: s, tr, r. - Âm đệm trong tiếng Kinh Môn cũng bao gồm hai âm đệm là |w| , |zêrô| chúng được sử dụng như trong tiếng toàn dân. - Âm chính: Về mặt số lượng cũng như sự phân bố của thổ ngữ Kinh Môn không có nhiều nét khác biệt so với tiếng nói của những vùng xung quanh và tiếng toàn dân. - Âm cuối: Âm cuối của tiếng Kinh Môn không có gì khác so với ngôn ngữ toàn dân cả về số lượng âm vị và cách thức thể hiện. Khi tiến hành nghiên cứu thổ ngữ Kinh Môn, chúng tôi rút ra được một số điểm khác biệt cơ bản như sau: Trong thổ ngữ Kinh Môn có sự đa dạng về ngữ âm. Trong cùng một xã nhưng tiếng nói của họ vẫn có những điểm khác biệt. Điều này là do sự di cư từ xã này sang xã khác như việc kết hôn, hoặc do sự thay đổi nơi ở, để thuận tiện cho việc làm ăn…. Chính điều này đã làm lên sự phong phú, đa dạng của ngữ âm ở Kinh Môn Điểm đặc biệt là khi phát âm người dân trong huyện sử dụng lẫn lộn phụ âm l và n hầu như âm n đều bị biến thành âm l. Ngoài ra, còn có hiện tượng sử dụng hai biến thể phụ âm “tr và gi”; “l và nh”. Tuy nhiên, hai biến thể này không xảy ra nhất loạt trong mọi trường hợp mà chỉ xảy ra trong một số từ hạn chế mà thôi. Bên cạnh đó còn có sự lẫn lộn d/r và nhầm lẫn giữa tr/th/s/t trong phát âm. Điểm khác biệt về nguyên âm đó là thổ ngữ Kinh Môn có hiện tượng có sự tương ứng giữa “ă” và “â”, có sự nhầm lẫn giữa “ư” và “â”, nguyên âm ưu® iu, nguyên âm đôi “ươ® iê”,nguyên âm “ô”® “u”, nguyên âm /e/ biến thành /ie/ ,biến đổi “iê” thành “ê”. - Tuy sự khác biệt này không còn nhiều song nó vẫn còn được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của người dân nơi đây. Tức là họ ý thức được rất rõ về giọng nói của mình. Trong quá trình tiếp xúc với người dân xã khác, họ nhận thức được sự khác biệt về mặt ngữ âm nhưng dường như họ lại không có ý định và ý muốn thay đổi nó. Chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu và lí giải điều này là do tâm lý, ý thức của họ dường như ý nghĩ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân nơi đây mà không gì có thể thay đổi được. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thổ ngữ Kinh Môn đang mất dần đi. Điều này do hệ quả của sự phổ cập giáo dục theo hướng phổ quát hoá ngôn ngữ toàn dân. Tiếng việt được đưa vào nhà trường từ 1945 đến nay 62 năm đã trôi qua, nhà trường đóng vai trò tích cực trong việc giáo dục ngôn ngữ toàn dân. Trong quá trình giáo dục đã hướng mọi người đến những chuẩn mực nhất định. Một vùng đất cổ như Kinh Môn với những nét đặc thù về ngữ âm, từ vựng đang dần dần bị mất đi. Sự nâng cao dân trí cho người dân cũng là một nhân tố làm tiêu biến dần thổ ngữ. Trong những năm gần đây, Kinh Môn có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và đã trở thành một vùng đất công nghiệp đặc biệt là ở phía bắc. Sự phát triển này đã dẫn đến sự di dân, tức là một số người tỉnh khác thuộc những vùng ngữ âm khác nhau đến sinh sống. Điều này làm cho quá trình pha tạp ngữ âm xảy ra. Nó làm mất đi tính thuần nhất của ngữ âm Kinh Môn với tốc độ khá nhanh. Tuy nhiên, ngữ âm Kinh Môn có rất nhiều nét khác với ngữ âm của các vùng khác xung quanh. Trong đó, cái gì còn lại, sẽ hết sức bền vững và có lẽ nó sẽ tồn tại trong một thời gian khá dài nữa. Với tư cách là một vùng đất cổ, nó là cái nôi của một vùng ngữ âm, từ vựng cổ. Hiện nay, nó đang từng bước không được giữ gìn một cách đúng mức. Từ những điều đã trình bày ở trên chúng tôi đưa ra xu hướng phát triển của thổ ngữ Kinh Môn. Đó là hệ thống ngữ âm sẽ được bảo lưu và tồn tại khá bền vững, từ vựng sẽ mất dần đi cùng với quá trình chuẩn hoá tiếng việt. Hiện tượng thổ ngữ mờ dần đi vì ngay trong chương trình giáo dục có những bài về từ địa phương. Một mặt chúng ta trân trọng bản sắc văn hoá của mình, những mặt khác chúng ta phải hướng đến cái chuẩn tức là phải nói và viết đúng tiếng việt. Trong quá trình thực hiện đề tài này chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, nhiều vấn đề chúng tôi chưa có đủ điều kiện để đi sâu tìm hiểu. Còn rất nhiều vấn đề đang đặt ra có lẽ phải cần nhiều thời gian và điều kiện để giải quyết. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Hoàng Thị Châu, Phương ngữ học tiếng việt, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội – 2004. 2/ Hoàng Thị Châu, Tiếng việt trên các miền đất nước, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội – 1989. 3/ Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng việt, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội – 2003. 4/ Nguyễn Minh Thuyết - Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng việt thực hành, nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội – 2001. 5/ Bùi Đăng Bình, Thực trạng hiện tượng “l” và “n” trong tiếng việt, nhà xuất bản Ngôn Ngữ Học Trẻ- 2002. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNN11 (4).doc