Tiểu luận Khủng hoảng kinh tế - Tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học

Nhiều công ty tư nhân đã bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng: tiêu biểu Aerolineas Argentinas - một trong những công ty bị ảnh hưởng nhất Argentina, phải ngừng tất cả các chuyến bay quốc tế cho các ngày khác nhau trong năm 2002. Các hãng hàng không đến gần phá sản, nhưng đã sống sót.

Hầu hết các mạng lưới trao đổi hàng hóa, khả thi như các thiết bị để phục các thiếu tiền mặt trong thời kỳ suy thoái này, sụp đổ như số lượng lớn người dân đã chuyển sang cho họ, tuyệt vọng để tiết kiệm như nhiều peso là họ có thể trao đổi cho các loại tiền tệ cứng như là một biện minh cho sự không chắc chắn.

Một số người vô gia cư mới và Argentina thất nghiệp hàng làm việc như cartoneros, hoặc thu gom các tông. Các dự toán năm 2003 của 30.000 đến 40.000 người scavenged các đường phố cho các tông để cung như thế ra một cuộc sống bằng cách bán nó cho các nhà máy tái chế. Phương pháp này chỉ chiếm một trong nhiều cách đối phó trong một đất nước mà vào thời đó bị một tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt ở gần 25%.

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3173 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khủng hoảng kinh tế - Tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng ngoạn mục sau đó. Thêm vào đó, những thành tựu kinh tế và sự ổn định trong giá trị đồng nội tệ đã dẫn tới một hệ quả đương nhiên, đó là dòng vốn quốc tế chảy ồ ạt vào Argentina. Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận. Đồng thời Chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Đương nhiên mọi lý lẽ lúc bấy giờ đều được lý giải khá hợp lý. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001). Khoản nợ nước ngoài này dẫn đến hậu quả tai hại là làm chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách, với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa, chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả... vay nợ nữa. Những biện pháp này có tác dụng tức thời. 3 năm sau đó nền kinh tế phát triển tốt trong khi lạm phát giảm. Tuy nhiên sự tự do hóa quá nhanh và quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn. Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh chóng, đạt 8% vào năm 1997. Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế. Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% và đây là một đòn đau cho Argentina vì Brazil là nước xuất khẩu chủ yếu của Argentina. Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các xí nghiệp quốc doanh trong thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước đây. Các điều kiện tồi tệ hơn vào năm 1999 khi GDP giảm 3%. Tổng thống Fernando DE LA RUA, người bắt đầu nhiệm kỳ vào tháng 12 năm 1999, đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999. Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ giá cố định theo đồng USD. Nền kinh tế Argentina bắt đầu suy thoái, các điểm yếu trong nền kinh tế lộ ra dẫn đến cuộc tháo chạy ồ ạt của nhà đầu tư nước ngoài. Vì nền kinh tế tự do hóa hết mức, việc rút tiền diễn ra rất dễ dàng. Argentina bắt buộc phải cầu viện IMF và tổ chức này - với những chính sách kỳ quặc - đã làm tình hình trở nên cực kỳ tồi tệ. Năm 2000 IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. Một điểm sáng đầu năm 2001 là IMF hỗ trợ 13,7 tỷ USD. Những chính sách này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia. Cuối năm 2001 dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa 1000 đô la một tháng, chính sách này được duy trì cho đến đầu năm 2002. Cuối năm 2001 IMF ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do Argentina không đáp ứng được các đòi hỏi tài chính. Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục người chết. Cuộc khủng hoảng xảy ra Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các chuyến bay của tiền từ nước này tăng lên. Năm 2001, người dân lo sợ điều tồi tệ nhất đã bắt đầu rút một khoản tiền lớn của tiền từ tài khoản ngân hàng của họ, biến peso thành đô la và gửi ra nước ngoài, gây ra một chạy trên các ngân hàng. Chính phủ sau đó ban hành một bộ các biện pháp (thông được biết đến như các corralito) mà hiệu quả bị đóng băng tất cả tài khoản ngân hàng cho mười hai tháng, cho phép chỉ có khoản tiền nhỏ tiền mặt được rút lại. Do giới hạn này phụ cấp và các vấn đề nghiêm trọng nó gây ra trong những trường hợp nhất định, nhiều người Argentina trở thành điên và xuống đường của thành phố quan trọng, đặc biệt là Buenos Aires. Họ tham gia vào một hình thức phản kháng đã trở thành phổ biến được biết đến như cacerolazo (đập nồi và chảo). Các cuộc biểu tình đã xảy ra đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2002. Lúc đầu, các cacerolazos được đơn giản chỉ ồn ào cuộc biểu tình, nhưng ngay sau họ bao gồm phá hủy tài sản, chỉ đạo thường xuyên tại các ngân hàng, công ty tư nhân nước ngoài, và đặc biệt là các công ty lớn của Mỹ. Nhiều doanh nghiệp hàng rào bằng kim loại được cài đặt bởi vì các cửa sổ và kính facades đã bị hỏng, và thậm chí bị bắt lửa cháy tại các cửa của họ. Bảng tin của các công ty như Coca Cola và những người khác bị đưa xuống của công chúng của những người biểu tình. Đối chất giữa cảnh sát và người dân đã trở thành một cảnh chung, và cháy cũng đã được thiết lập trên đường Buenos Aires. Fernando de la Rúa tuyên bố tình trạng khẩn cấp (bất hợp pháp vì nó cần xác nhận của Quốc hội), nhưng điều này chỉ nên tồi tệ hơn tình hình, kết tủa các cuộc biểu tình bạo lực của 20 và 21 Tháng Mười Hai năm 2001 tại Plaza de Mayo, nơi những người biểu tình đụng độ với cảnh sát, đã kết thúc với một số người chết, và kết tủa sự sụp đổ của chính phủ. De la Rua cuối cùng đã chạy trốn khỏi Rosada Casa trong một chiếc trực thăng vào ngày 21 tháng 12. Hiệu ứng của cuộc khủng hoảng Nhiều công ty tư nhân đã bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng: tiêu biểu Aerolineas Argentinas - một trong những công ty bị ảnh hưởng nhất Argentina, phải ngừng tất cả các chuyến bay quốc tế cho các ngày khác nhau trong năm 2002. Các hãng hàng không đến gần phá sản, nhưng đã sống sót. Hầu hết các mạng lưới trao đổi hàng hóa, khả thi như các thiết bị để phục các thiếu tiền mặt trong thời kỳ suy thoái này, sụp đổ như số lượng lớn người dân đã chuyển sang cho họ, tuyệt vọng để tiết kiệm như nhiều peso là họ có thể trao đổi cho các loại tiền tệ cứng như là một biện minh cho sự không chắc chắn. Một số người vô gia cư mới và Argentina thất nghiệp hàng làm việc như cartoneros, hoặc thu gom các tông. Các dự toán năm 2003 của 30.000 đến 40.000 người scavenged các đường phố cho các tông để cung như thế ra một cuộc sống bằng cách bán nó cho các nhà máy tái chế. Phương pháp này chỉ chiếm một trong nhiều cách đối phó trong một đất nước mà vào thời đó bị một tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt ở gần 25%. Nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng: Các sản phẩm Argentina bị từ chối tại một số thị trường quốc tế, trong lo sợ rằng họ có thể đến hư hỏng vì những điều kiện nghèo, trong đó họ đã tăng trưởng, và USDA đặt hạn chế về thực phẩm và thuốc Argentina đến lúc Hoa Kỳ. Sản xuất của các kênh truyền hình đã buộc phải sản xuất thực tế cho thấy nhiều hơn bất kỳ loại hình khác cho thấy, bởi vì các nói chung rẻ để sản xuất so với các chương trình khác. Hầu như tất cả các chương trình giáo dục-truyền hình liên quan đã được hủy bỏ. Du lịch cân bằng với Chile đảo do giá hạ xuống ở Argentina Kể từ khi phó chủ tịch của De la Rua, Carlos Alvarez, đã từ chức vào năm 2000 mười, một cuộc khủng hoảng chính trị kéo tới. Thủ tục sau đây kế vị tổng thống được thiết lập trong Hiến pháp, tổng thống của Thượng viện Ramon Puerta nhậm chức, nhưng nhanh chóng từ chức, theo sau là chủ tịch của Phòng Hạ nghị sỹ, Eduardo Camaño. Hội Lập pháp (một cơ thể hình thành từ việc sáp nhập cả hai viện của Quốc hội) triệu tập với mục tiêu là tạo thêm một chính phủ hợp pháp tạm thời. Theo luật, các ứng cử viên được các thành viên của mình cộng với các Thống đốc của tỉnh, họ cuối cùng cũng bổ nhiệm Adolfo Rodríguez Saá, sau đó thống đốc của San Luis. Trong tuần cuối năm 2001, chính phủ lâm thời do Adolfo Rodríguez Saá, đối diện với impossibility thanh toán nợ cuộc họp, cài đặt sẵn trên phần lớn các khoản nợ công cộng, tổng cộng không ít hơn 93.000 triệu đô la Đúng vào ngày 31/12 năm 2001, ngày cuối cùng trong năm, Eduardo Duhalde được quốc hội chỉ định làm tổng thống và ông này ngay tức khắc lên án chính sách tự do hóa nền kinh tế. E. Đuhale tuyên bố chấm dứt sự hoạt động của currency board và lên kế hoạch phá giá đồng tiền 29% (1 đổi 1.4 dollar) trong những giao dịch thương mại quốc tế chủ yếu. Những yếu tố khác trong chính sách kinh tế của tân tổng thống bao gồm: chuyển đổi tất cả các khoản nợ có trị giá trên 100,000 USD thành đồng peso, kiểm soát tài khoản ngân hàng và dòng chảy tư bản, áp dụng chính sách thuế mới lên dầu thô để bồi thường cho chủ nợ bị mất mát do không được Argentina trả nợ, cân bằng thu chi ngân sách và tái đàm phán nợ công. Những chính sách này phát huy tác dụng. Argentina dần thoát khỏi khủng hoảng, nhưng rất chậm. Tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn đều là liên quan đến lạm phát và thất nghiệp trong năm 2002. Vào thời gian ban đầu 1-to-tỷ lệ 1 đã tăng vọt lên gần 4 pesos mỗi đồng đô la, trong khi lạm phát được tích lũy từ mất giá đã được khoảng 80%. (Cần lưu ý rằng những con số thấp hơn đáng kể đã được báo trước bởi hầu hết những nhà kinh tế chính thống vào thời điểm đó) Chất lượng cuộc sống mức trung bình của Argentina đã hạ thấp tỷ lệ; nhiều doanh nghiệp đóng cửa hoặc phá sản, nhiều sản phẩm nhập khẩu trở nên hầu như không, và tiền lương được trái như chúng đã được trước khi cuộc khủng hoảng. III. Nguyên nhân của khủng hoảng Vấn đề trước hết là chính sách hối đoái gắn đồng peso của Argentina với đồng USD, theo tỷ lệ một - một, do Bộ trưởng Kinh tế Domingo Cavallo đề xuất năm 1991. Khi ấy ông Cavallo hy vọng biện pháp này sẽ giải quyết được nạn siêu lạm phát và giúp thanh toán nợ nần của nhà nước. Lúc đầu tình trạng lạm phát đã giảm xuống đáng kể từ mức 2.00%/tháng. Tuy nhiên thay đổi này cũng đã khiến nhà nước Argentina không có được chính sách tiền tệ riêng. Theo Time, đến năm 1999 khi nước Brazil láng giềng phá giá đồng real, các nhà đầu tư và thương nhân nước ngoài nhận ra mình có thể dùng đồng USD mua được nhiều hàng hóa hơn ở Brazil và một số nước khác trong vùng so với ở Argentina. Vì thế đầu tư nước ngoài vào Argentina và ngành xuất khẩu của nước này (chủ yếu là hàng nông phẩm) đã sụt giảm thê thảm. Yếu tố khủng hoảng thứ hai của Argentina gắn liền với việc chính phủ của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã vay nợ "thẳng tay" khiến tổng số nợ hiện nay lên đến 132 tỷ USD, tương đương 1/7 toàn số nợ của các nước đang phát triển. Mỗi khi bị lâm vào khủng hoảng, Argentina lại cần được vay nợ nên phải chấp nhận lãi suất cao (hiện Argentina phải trả lãi 15% cho khoản nợ của mình). Việc chính phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng. Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Vấn đề thứ ba bắt nguồn từ làn sóng tư hữu hóa trong những năm 1990, dưới thời tổng thống Menem, đã làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm nhiều người bị sa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào doanh nghiệp. Trong khi đó Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khẳng định mình sẽ không giúp Argentina thoát khỏi khủng hoảng bằng cách chi trước những khoản tiền vay đã được thông qua để nước này thanh toán nợ. Cả ba yếu tố khủng hoảng trên đã kết hợp lại cách đây vài tuần khi người dân bắt đầu nghi ngờ rằng đồng peso sẽ bị mất giá nên đổ xô đến các ngân hàng yêu cầu chuyển số tiền của mình sang đồng USD theo tỷ giá 1:1 đúng theo chính sách của ông D.Cavallo. Trước tình hình này, ông Cavallo phải đưa ra giới hạn số tiền rút ra trong một tháng là 1.000 USD nhằm tránh tình trạng các ngân hàng bị kiệt quệ. Song giải pháp này chỉ càng làm người dân cảm thấy bất ổn và trở nên giận dữ hơn, dẫn đến tình trạng nhiều người kéo nhau đập phá các cửa hiệu, siêu thị để hôi của và nổ ra những cuộc biểu tình đòi chính phủ từ chức. Các nhà phân tích cho rằng giới lãnh đạo trên thế giới có thể rút ra nhiều bài học từ công tác điều hành thiếu sót của Chính phủ Argentina: chi nhiều hơn thu, bỏ qua một cách thô bạo những quy tắc của kinh tế thị trường, không chú trọng đạt được sự nhất trí giữa các đảng phái chính trị và nhắm mắt trước nạn tham nhũng. Xã luận của tờ Thương mại (Peru) cho rằng có một "quy tắc vàng" trong kinh tế mà không phải nhờ đến IMF hoặc phải là một nhà kinh tế nổi tiếng mới biết được: chỉ thu được 2 đồng thì không nên chi 3 nếu không muốn làm sụp đổ nền kinh tế nước mình. Sự xói mòn của bảng Tổng kết tài sản Sự gia tăng lãi suất Sự suy giảm của thị trường chứng khoán Sự gia tăng tính bất định Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Thâm hụt ngân sách Khủng hoảng ti giá Hoảng loạn ngân hàng Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Hoạt động kinh tế giảm sút Khủng hoảng ngân hàng Rủi ro tín dụng và rủi ro đạo đức gia tăng Hoạt động kinh tế giảm sút Trình tự cố biến cố trong cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina -Thâm hụt ngân sách ở Argentina quá lớn: Sự thâm hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái phiếu của mình và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để xử lý vấn đề khó khăn về ngân sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khà năng của chính phủ trong việc hoàn trả các khoàn nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản của ngân hàng thương mại. Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có ít nguồn lực để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong hoạt động kinh tế. -Tỉ giá quá cứng nhắc: Thực chế độ tỉ giá cố định 1 peso bằng 1USD. Do đó, khi Qũy Dự Trữ Liên Bang Mỹ bắt đầu tăng lãi suất vốn liên bang (lãi suất chiết khấu) để chống lại sức ép lạm phát, đã tạo ra một áp lực làm tăng lãi suất ở Argentina trực tiếp làm tăng vấn đề lựa chọn tiêu cực trên thị trường của họ, vì có nhiều khả năng những người mạo hiểm nhất muốn tìm các khoản cho vay. -Sự suy giảm thị trường chứng khoán và tính bất định: Sự gia tăng tính bất định và sụt giảm giá trị ròng với tư cách là sự sụt giảm trên thị trường cổ phiếu là tăng vấn đề thông tin không cân xứng. Nó làm cho người ta khó sàng lọc những người đi vay tốt và những người đi vay xấu và sự giảm sút trong giá trị ròng làm giảm giá trị vật thế chấp của doanh nghiệp làm tăng động cơ chấp nhận những dự án mạo hiểm, vì vốn cổ phần mất ít hơn khi dự án đầu tư không thành công. Nhìn chung, những yếu tố trên làm trầm trọng thêm sự lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức mà người cho vay phải đối mặt. Mà điều đó dẫn đến việc cho vay kém hấp dẫn hơn, họ không muốn cho vay hoặc cho vay ít hơn và điều này làm giảm quy mô cho vay, đầu tư và hoạt động kinh tế. Những yếu tố này tạo ra điều kiện cần và đủ cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Hiệu ứng sau đó: Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các chuyến bay của tiền từ nước này tăng lên. Người dân lo sợ cho sự an toàn của số tiền đã gửi và không biết chất lượng danh mục cho vay của ngân hàng, người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng rút tiền, dẫn đến tình trạng hoảng loạn ngân hàng bắt đầu từ ngày 11/10/2001. Tình hình này, cộng với nhận thức chính phủ sẽ tuyên bố vỡ nợ , dẫn đến tới cuộc tấn công đầu cơ vào đồng peso của Argentina và đồng tiền này đã sụp đỗ- giảm tới trên 70% giá trị. Nó làm cho các doanh nghiệp có mức nợ cao bằng đồng tiền nước ngoài hoàn toàn mất khả năng trả nợ. Tình hình này càng làm tăng vấn đề lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức. Kết quả, người cho vay trong nước và nước ngoài ít sẵn sàng cho vay hơn nữa làm sụt đổ hoạt động kinh tế và tốc độ tăng GDP thực tế đã giảm. Sự suy giảm trong dòng tiền mặt và bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp và các hộ gia đình làm cho tình trạng khủng hoảng ngân hàng ngày càng tồi tệ hơn làm cho vấn đề lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính xấu đi do ngân hàng ít có khả năng đóng vai trò truyền thống của mình là trung gian tài chính. IV. Biện pháp khôi phục nền kinh tế Sau cuộc khủng hỏang trầm trọng 2000-2002, năm 2003 argentina đã vựt dậy nền kinh tế 1 cách ngoạn mục với tăng trưởng >6% ( mặc dù tăng trưởng năm 2002 là -10%) và tiếp tục phục hồi đáng kể cho đến ngày nay. Vậy bằng cách nào argentina làm nên sự kì diệu như thế? Kể từ khi lên cầm quyền 5/2003 chính phủ Kirchner đã bắt đầu thực hiện các kế họach hành động trong hàng lọat các lĩnh vực nhà nước, ban hành và áp dụng các chiến lược, chính sách, cơ cấu kinh tế nhằm đưa Argentina thoát khỏi khủng hoảng. Cụ thể: Chính sách thương mại: Tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và phát triển các ngành sản xuất trong nước. Chính sách đồng peso yếu và thúc đẩy xuất khẩu là một trong những biện pháp trọng tâm trong chính sách phát triển kinh tế của Argentina sau khi nước này phải đối mặt với một trong những cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng nhất trong lịch sử. Nỗ lực của Chính phủ trong việc đạt được thặng dư ngân sách liên tục trong 2 năm qua đã từng bước góp phần làm lành mạnh lĩnh vực tài chính công, tăng dự trữ ngoại hối và chi trả một phần lãi vay và các khoản nợ đến hạn, cải thiệt được một phần hình ảnh của Achentina với các tổ chức tài chính quốc tế. Vai trò và uy tín của Chính phủ và tổng thống ngày càng được củng cố. Chính Phủ ưu tiên, khuyến khích, củng cố và phát triển tư bản dân tộc với chính sách đẩy mạnh sản xuất và tăng cường hỗ trợ các doanh nhiệp nhỏ và vừa .Sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu, từng bứớc nới lỏng các hạn chế vê tài chính, liên tục giảm lãi suất tiền vay. Duy trì tới mức tối đa giá các dịch vụ cơ bản như điện, nước, nhiên liệu. Áp dụng các biện pháp mạnh mẽ trong việc chống trốn thuế.Ngoài ra Argentina còn tăng cường xuất khẩu lúa mì, các hàng nông sản và các mặt hàng có thế mạnh của mình sang Brazil và các nước khác để giảm bớt hiện tượng nhập siêu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Argentina trong những năm gần đây (Triệu USD) Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng số Chênh lệch 2001 26.610,00 20.321,00 46.931,00  6.289,00 2002 25.706,00 8.999,00 34.705,00 16.707,00 2003 29.349,00 13.813,00 43.162,00 15.536,00 2004 34.550,00 22.444,00 56.994,00 12.106,00 2005 40.347,00 28.688,00 69.035,00 11.659,00 2006 46.456,00 34.151,00 80.607,00 12.305,00 2007 55.933,00 44.780,00 100.713,00 11.153,00 Xuất nhập khẩu phân bố theo khu vực: Xuất khẩu (%) Nhập khẩu (%) Khối Mercosur 31 23 EU (Châu Âu) 23 22 NAFTA 16 19 Trung quốc 9 8 Các nước khác 21 28 Nhìn vào số liệu xuất nhập khẩu của Argentina đối với các nước trên thế giới từ năm 2001- 2007, ta thấy rằng cân bằng trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Argentina với thế giới nói chung luôn luôn dương, không có hiện tượng nhập siêu trong thời kỳ này. Tuy nhiên, đối với từng nước riêng biệt thì Argentina cũng có hiện tượng nhập siêu, chẳng hạn như nhập siêu của Argentina đối với Brazil, Mỹ, Canada, Mexico v.v… Các vấn đề tiếp theo là giải quyết vấn đề năng lượng và giá cả. Giữ vững được thặng dư tài chính và cân bằng ngoại thương. Giải quyết tốt được vấn đề nợ đối với nước ngoài, cân bằng được cán cân thanh toán và điều chỉnh tăng số dư tài chính. Chính phủ AR. đề ra các biện pháp kinh tế và kế hoạch “Đột biến- Shock” phải thực hiện là: +Tăng cường thu thuế Nhà nước và giảm chi phí công cộng; + Giữ vững và tăng thặng dư thương mại; +Tăng số tiền thu thuế từ việc xuất khẩu; Với số tiền tăng do thu thuế, sẽ trợ cấp để giảm giá lương thực, thực phẩm; +Tăng mức thuế về điện và gas; +Giữ vững tỉ giá tiền tệ; +Giảm lãi suất ngân hàng; +Tiếp tục bảo đảm bảo hiểm xã hội; + Tăng cường thương lượng với các tổ chức nước ngoài để họ tiếp tục cho nợ các khoản vay mà chưa phải trả v Chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại của Argentina độc lập hơn so với trước, đặc biệt là trong chính sách quan hệ với Mỹ. Ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, tích cực ủng hộ chính sách liên kết khu vực Mercosur, Chile, tăng cường quan hệ với Venezuela, Mexico. Chú trọng trong quan hệ kinh tế với EU, Mỹ, các nước lớn, củng cố và tăng cường phát triển kinh tế và buôn bán với Trung quốc và Nhật Bản. Chính sách đầu tư: Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào mọi lĩnh vực kinh tế của đất nước, đặc biệt là vào lĩnh vực năng lượng và các lĩnh vực sản xuất, thay thế việc nhập khẩu ở nước ngoài mà có thể gây nên hiện tượng nhập siêu. Ví dụ: kêu gọi Brazil đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất, lắp ráp các bộ phận ô tô ở Argentina, thay thế việc nhập khẩu các bộ phận này ở Brazil. Nhiều năm nay nước này vẫn đang tích cực mời chào, kêu gọi FDI nhưng kết quả còn hạn chế, do các nhà đầu tư nước ngoài chưa giải tỏa khỏi “hội chứng” từ cuộc khủng hoảng kinh tế 1999-2002 của nước này. Nhờ đó dòng vốn FDI đầu tư vào Argentina đã được cải thiện từ 2004 nhưng tốc độ chậm: 1,9 tỉ USD (2003), 4,2 tỉ (2004), 5,01 tỉ (2005), 4,8 tỉ (2006), 5 tỉ (2007), 8 tỉ (2008). FDI tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bất động sản, dịch vụ bưu chính viễn thông, điện, nước, siêu thị, hàng không, tài chính ngân hàng, hạ tầng cơ sở, khai thác tài nguyên.  Chính sách tài chính: - Khôi phục việc quản lý ngoại hối, buộc các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ trong nước và hạn chế việc vốn bị tuồn ra nước ngoài. - Quản lý thuế xuất khẩu, góp phần tạo ra cân đối ngân sách và giảm tác động của việc đồng peso mất giá đối với giá cả trong nước. - Chính sách hối đoái nhằm tránh đồng peso tăng giá thông qua sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương, - Đông giá dịch vụ công cộng. (Nguyên văn tiếng TBN : Se mantuvo el congelamiento de las tarifas publicas), có nghĩa là : Giữ vững giá cả các mặt hàng quan trọng của nền kinh tế, đúng với những chi phí sản xuất (xí nghiệp) của chúng và trong mối tương quan với mức lương thực tế. Trước mắt, lối thoát khả dĩ nhất là để đồng peso trôi nổi, giúp Argentina tạo ra một hàng rào bảo vệ, chống những mặt hàng bên ngoài, thêm nữa điều này sẽ cải tạo cán cân thương mại (nhập siêu) với các nước như Brazil, Mexico với tỉ giá đô la tự do. Nhờ những biện pháp nêu trên, kinh tế Argentina phục hồi khá nhanh và giữ được nhịp độ tăng trưởng cao thuộc vào loại nhất ở MLT. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Argentina 2003 -2008 (%) 2003 2004 2005 2006 2007 2008 8.8 9 9.2 8.5 8.6 7.1 V. Bài học kinh ngiệm cho Việt Nam 1.Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP). Liên hệ với những gì đang diễn ra trên đất nước ta, “Bài học từ Argentina” cho thấy những cảnh báo này chẳng thừa chút nào, vì ngay giai đoạn đầu tiên, chương trình tái cấu trúc nền kinh tế VN có vẻ rất “khớp” với những hình ảnh trong “bài học” ấy. Theo WB, ngưỡng an toàn đối với các nước đang phát triển là tỉ lệ nợ nước ngoài phải dưới 40%/GDP Tỉ lệ nợ nước ngoài của VN thể hiện ở bảng sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng nợ(tỷ USD) 11.8 11.9 11.8 13.3 16.7 18.9 22.2 20.0 % GDP 39.0 37.4 34.0 34.1 36.8 35.8 36.6 37.2 Theo tiêu chí đánh giá quốc tế, các chỉ số phản ánh khả năng trả nợ của Việt Nam đều ở dưới mức lo ngại.Nhưng nếu tính đến lãi suất phải trả và cả việc đồng Việt Nam có khả năng mất giá trong tương lai thì số thực nợ phải trả là không hề nhỏ, nó không thể lạc quan thái quá như việc một số quan chức Chính phủ cho rẳng tỉ lệ nợ vẫn ở mức an toàn? Vì nghĩa vụ thanh toán nợ bằng nguồn của ngân sách nhà nước (NSNN) đối với các khoản nợ của Chính phủ sẽ lớn dần khi các khoản vay đến hạn phải trả nợ gốc. Hiện nay, để giúp nền kinh tế sớm thoát ra khỏi khủng hoảng, Chính phủ đã vay nước ngoài để tung ra nhiều gói kích cầu.Nhưng Chính phủ  cũng phải hướng tới phát triển lâu dài, tuân thủ những nguyên tắc nhất quán: kích cầu nhưng đảm bảo nợ quốc gia  không quá 40% GDP…  Đối với nước ta, trong cơ cấu nợ Chính phủ là “con nợ” lớn nhất với tỉ trọng trung bình là 65,4%, kế đến là các DNNN và cuối cùng là các doanh nghiệp FDI.The problem with Argentine fixed exchange rate was it caused the peso to increase in value at the same rate as the dollar during the economic boom of the 1990's.  A rising currency value caused Argentina's exports to become more expensive relative to the country's imports.  Since Argentina's largest trading partners are Brazil and the European Union, whose currencies were valued much lower than the peso, the Argentine export market was

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdetai11_khung_hoang_no_2227.doc
Tài liệu liên quan