Tiểu luận Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Mục lục

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 3

I. Một số vấn đề lý luận về KTNN: 3

1. Một số khái quát chung về KTNN: 3

2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế 5

3. Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 11

II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 16

1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kì đổi mới: 16

2. Những tồn tại yếu kém trong quá trình đổi mới và thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN: 25

III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân. 31

1. Một số giải pháp: 31

2. Một số kiến nghị: 33

Kết luận: 34

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4047 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới. Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đã tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh dạn cùng tham gia đầu tư phát triển. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay còn gắn liền với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó đay cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu, làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô nhiễm môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thì công nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các doanh nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và cung cấp các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi trường và doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ môi trường để các doanh nghiệp khác đi theo. * Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trò chủ đạo, làm tâm điểm ảnh hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đã chọn và đó chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước. Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mô của các thành phần kinh tế tư nhân của nước ta còn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian phát triển còn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta. Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở thành lực lượng nguồn cốt, tạo choõ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thì kinh tế nhà nước phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý. Luôn giữ được vị trí, vai trò xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, để từ đó các thành phân kinh tế khác có được chỗ dựa vững mà cùng phát triển, đi lên. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lỗ hổng là những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đòi hỏi đầu tư lớn: đó là các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển có cơ sở hạ tầng thấp kém. Để khắc phục tình trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thì kinh tế nhà nước phải có mặt để xây dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều kiện tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Đó cũng là một chức năng thể hiện vai trò chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng được trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hố ngăn cách giữa thành thị và nông thôn. Phát triển theo đúng định hướng XHCN còn thể hiện ở việc tuân theo pháp luật mà nhà nước XHCN đã đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy không ít chủ các doanh nghiệp dân doanh chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà bất chấp cả pháp luật, hoặc cáo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là vấn đề mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong những công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vì vậy, DNNN phải là tấm gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật để các doanh nghiệp khác cùng noi theo. * Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế theo định hướng XHCN. Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng hoá không có lãi hoặc lỗ. Tuy nhiên không phải mọi doanh nghiệp đều luôn thu nhận được thông đầy đủ để quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào, tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đỗi với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thì nhà nước sử dụng KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vì : Thứ nhất: KTNN từ khi được hình thành cho tới nay luôn được chú trọng đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả năng sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đối giữa các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN được nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh tế quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà các thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thì khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng sinh lời tăng lên thì doanh nghiệp dân doanh nhày vào hoạt động và đủ khả năng cung cấp cho thị trường thì DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các lĩnh vực khác. Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát triển. Nhà nước đã rất chú trọng đầu tư phát triển ở các vùng này từ rất lâu và hiện nay nó đã phát huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó tương tự như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước. Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo dẫn nền tảng kinh tế cho chế độ xã hội mới, XHCN. Theo luận điểm của Mác-Lenin thì chế độ XHCN phải được xây dựng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều thuộc sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được biến TLSX thành tài sản riêng của mình. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Khi xem xét về nguồn gốc hình thành KTNN ta đã biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu toàn dân, còn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tập thể, trong thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta thì đây là hai hình thức sở hữu được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới XHCN. Vì vậy để xây dựng nền kinh tế XHCN thì KTNN cùng kinh tế tập thể có vai trò là nền tảng cơ bản . II. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay. 1. Những bước chuyển biến chủ yếu của KTNN trong thời kì đổi mới: Từ giai đoạn đầu thực hiện đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 – 1990), một nền kinh tế đa phần được hình thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đã giữ vững và khẳng định được vai trò chủ đạo của nó. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp. Sang thập niên 90 – là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách, biện pháp lớn mạnh nhằm cải tổ và sắp xếp lại cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. Với các chính sách, cơ chế đổi mới để DNNN tự chủ trong cơ chế thị trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho đó là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư xây dựng cơ bản, tài chính, lao động… trên cơ sở tính toán nhu cầu thị trương về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mình. Về tài chính Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp có quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao động và thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi việc, mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá sâu vào các hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt có tính tổng quan, chiến lược, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra việc chấp hành pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước đối với DNNN: có một bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân công, phân cấp giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp. Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động. Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đó được thể hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đó, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội địa. Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ chức, củng cố và phát triển các DNNN, các tổng công ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 – 1997), đợt 3 (1998 – 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đã có sự đổi mới về quy mô, về cơ cấu tổ chức quản lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp đổi mới đó là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm 1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (năm 2000). Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động, các tổng công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của đất nước. Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên, chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao động. Năm 2000, các tổng công ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép, các ngân hàng thương mại giữ 70% thị phần vốn vay. Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới công ty cổ phần. Tính đến năm 2001, cả nước đã cổ phần hoá được 529 DN và 102 bộ phận DN bằng 11% tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ phần hoá các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo cáo của 202 DN đã cổ phần hoá được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm 65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số lượng công nhân viên tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đó đã chứng tỏ rằng chính sách cổ phần hoá các DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng với mọi DN khác. Thực hiện chính sách giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đó là những doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng, kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trì sở hữu Nhà nước, cần áp dụng các hình thức xử lý thích hợp như: sát nhập, đấu thầu công khai, cho thuê, khoán kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, công nhân với điều kiện đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động và thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư (Khoá VIII) đã nêu trên, đến thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh của các DN này khá lên rõ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn kinh doanh tăng 67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5% lao động tăng 12,8%, thu nhập bình quân đầu người bằng 38,7%, một số còn tích luỹ thêm và đã mở rộng được sản xuất. Đó là thành quả rất đáng mừng đối với sự phát triển của kinh tế nhà nước. Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đã có những chuyển biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực đến quyền tự chủ của các doanh nghiệp và do đó hoạt động có hiệu quả hơn trước, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt, là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang ở trong thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và bước đầu đạt được những thành tựu khiến thế giới phải kinh ngạc.Từ một nước nông nghiệp lạc hậu chịu thiệt hại nặng nề của chiến tranh nước ta đang từng bước vươn lên với những bước đi đúng đắn.Trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP : 8,44%, chỉ đứng sau Trung Quốc, GDP tính theo giá trị thực tế 1141 tỉ đồng, bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng.Nếu tính bằng USD theo giá hối đoái hiện nay thì GDP đạt 71,3 tỉ, GDP bình quân đầu người đạt 835USD.(Theo số liệu của tổng cục thống kê).Bên cạnh đó khối lượng đầu tư toán xã hội thực hiện trong quý I năm 2008 theo giá trị thực tế: 105,1 nghìn tỉ đồng tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2007.Việt Nam cũng đang là một trong những nước đứng đầu thế giới về một số mặt hàng xuất khẩu như :gạo, cà phê,…nhưng chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp.Bên cạnh đó mức thu hút vốn đầu tư của nước ta trong năm 2007 cũng đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua kể từ khi Việt Nam thực hiện mở cửa thu hút vốn trực tiếp nước ngoài: Con số lên tới 20,3 tỉ USD.Xuất khẩu đạt mức tăng 21%, tỷ lệ hộ nghèo giảm dưới 15% và tạo thêm 1,7 triệu việc làm mới cho người lao động.(Nguồn: Thời báo viêt.com)Tin tức kinh tế 23533.tbv) Trong những thành tích đó kinh tế nhà nước cho thấy vai trò chủ đạo của mình qua những thành tựu của hơn 20 năm đổi mới. Trước hết xét về tỉ lệ đóng góp của kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng như kinh tế nhà nước và kinh tế ngoài nhà nước đối với kết quả tăng trưởng GDP thời kỳ 2001 cho thấy: Kinh tế nhà nước đóng góp nhiều nhất(46,3%, tiếp sau đến kinh tế ngoài nhà nước 38,4%, thấp nhất là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 15.3%, tuy nhiên với tốc độ tăng trưởng bình quân 13,2%/năm trong thời kỳ 2001_2006, khu vực này đang khẳng định vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân).duwois đây là số liệu về cơ cấu kinh tế trong GDP của Việt Nam giai đoạn 2000-2006.Đơn vị % Tỷ trọng GDP(giá thục tế) Tốc độ tăng trưởng(giá so sánh) Năm KTNN KTNNN FDI KTNN KTNNN FDI 2000 38,52 48,2 13,27 7,72 5,04 14,44 2001 38,4 47,84 13,76 7,44 6,36 7,21 2002 39,08 46,65 14,47 7,11 7,04 7,16 2003 39,10 45,77 15,13 7,65 6,36 10,52 2004 38,40 45,61 15,99 7,75 6,95 11,5 2005 37,32 45,66 17,02 7,37 8,21 13,2 2006 35,8 45,83 17,86 6,36 8,24 13,3 Ta có thể thấy tỷ lệ đóng góp vào GDP của kinh tế nhà nước ngày càng giảm và tôc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế nhà nước ngày càng giảm.Tuy nhiên nguồn vốn của khu vực kinh tế nhà nước khá lớn:187,8 nghìn tỷ đồng chiếm 40,7% (số liệu 2007 )trong khi vốn đàu tư nước ngoài chỉ 74,1 nghìn tỉ đồng chiếm 16%.Như vậy khu vực kinh tế nhà nước tạo nguồn vốn chủ yếu trong ngân sách nhà nước. Theo số liệu của tổng cục thống kê (Thông cáo báo chí về thành tựu kinh tế-xã hội quý I năm 2008)đã cho thấy tổng thu ngân sách nhà nước tính từ đầu năm đên 15/3/2008) đạt 22,3% trong đó kinh tế nhà nước chiếm 22,7% khối lượng đầu tư toàn xã hội quý I/2008 lên tới 105,1 nghìn tỉ đồng tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2007.Trong đó vốn của khu vực kinh tế nhà nước :47,8 nghìn tỉ đồng chiếm 45,5 tổng đầu tư và tăng 14,6% trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước 30,5 nghìn tỉ đồng chỉ chiếm 25,5% tổng vốn và tăng 24,1%so với cùng kỳ năm 2007.Đặc biệt nhiều doanh nghiệp nhà nước đã giữ vững vị trí then chốt của mình đi đàu trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào mức tăng trưởng kinh tế của đất nước, góp phần đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,lạc hậu.Trong nền kinh tế đất nước hiện chính sách xã hội,khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo nhiều sản phẩm,dịch vụ công ịch thiết yếu cho xã hội,quốc phòng,an ninh (nghị quyết trung ương khóa IX) Đặc biệt là thành tựu trong việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước-hướng đi đúng đắn mà Đảng và nhà nước ta đang hướng tới.Theo báo cáo gần đây của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước (tháng 5-2006)trong 15 năm qua nước ta đã cổ phần hóa được 2935 doanh nghiệp nhà nước ,trong đó hơn 80% số doanh nghiệp được cổ phần hóa từ năm 2001 đến nay.Thực tế đã cho thấy sau khi CPH có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, chỉ có 10% số doanh nghiệp náy hoạt động kém hiệu quả.Theo kết quả nghiên cứu cho thấy chưa có doanh nghiệp nhà nước nào sau khi cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa.Đây là thành tựu đáng mừng trong việc định hướng XHCN của Đảng và Nhà nước ta.Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa, cổ đông là nhà nước nắm 46,3% cổ phần, là cán bộ iên chức nắm 29,6%, cổ phần và cổ đông ngoài nhà nước nắm 24,1% cổ phần.Như vậy cơ cấu cổ đông như trên tạo điều kiện thuận lợi cho mọi nhà đầu tư tham gia vào quá trình xây dựng doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thì việc chuyển các công ty trong nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn và hoạt dộng theo mô hình công ty mẹ- công ty con hình thành các tập đoàn kinh tế cũng là một biện pháp thiết thực, phù hợp với tình hình kinh tế đất nước giai đoạn hiện nay.Cơ cấu này bước đầu phát huy hiệu quả , lợi thế so sánh về vốn công nghệ, thị trường , khả năng cạnh tranh phù hợp với yêu cầu thích ứng của thị trường, chúng ta đã có 8 tập đoàn kinh tế nhà nước: bưu chính viễn thông(VNPT), than- khoáng sản(Viracomin), Dầu khí có Petro Việt Nam, điện lực có EVN, CN tàu thủy có Vinashin, dệt may (Vinatex), cao su (VRG) , tài chính- bảo hiểm(Bảo Việt).Rõ rang lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp này có ý nghĩa chiến lược trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước, có sức cạnh tranh cao trên trường. Qua phân tích ở trên đã cho ta thấy những thành tựu to lớn của kinh tế nhà nước hiện nay.Nó tác động trực tiếp đến các thành phần kinh tế khác cũng như khả năng điều tiết nền KTTT đúng định hướng XHCN.Thành phần kinh tế nhà nước là một thành phần kinh tế đặc biệt,nó không chỉ đóng vai trò trong kinh tế mà còn quyết định các vấn đề của xã hội.Lĩnh vực công nghiệp luôn tạo được hiệu quả cao với tỷ trọng đóng góp vào GDP lớn.Năm 2007 tăng trưởng cao của công nghiệp đạt được ở cả 3 khu vực:Riêng khu vực kinh tế nhà nước trong năm 2007 tăng cao nhất so với 2 năm trước đó(2005 chỉ tăng 7,2% ;2006 tăng 9,3%).Trong khu vực này các doanh nghiệp trung ương tăng với 13,3% cao hơn tốc độ tăng trưởng của 2 năm trước đó(2005 tăng 12,4%; 2006 tăng 11,9%), các doanh nghiệp địa phương tăng 3% cũng cao hơn năm trước (2006 tăng 2%) Tuy nhiên hiệu quả lao động trong khu vực Kinh tế nhà nước còn thấp, sức cạnh tranh còn yếu nên tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước thấp nhất trong 3 khu vực.Vì vậy việc đổi mới, sắp xếp cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua đã làm giảm đáng kể số lượng doanh nghiệp nhà nước không có hiệu quả góp phần nâng cao năng lực nói chung của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước , tập trung chủ yếu vào những ngành lĩnh vực quan trọng.tính đến 31/12/2005, cả nước chỉ còn 3067 công ty nhà nước (bằng 58,2%) số lượng công ty nhà nước năm 2000 và 944 doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước. 5428 4773 4273 3808 3067 Số DN 7000 6000 5000 5266 4000 3000 2000 1000 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Nguồn: Tổng cục thống kê Các doanh nghiệp không chỉ giảm về số lượng mà còn tăng về chất lượng.Kết quả sản xuất kinh doanh và các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu, lợi nhuận , nộp ngân sách nhà nước có sự tăng trưởng : số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 79,4%, hòa vốn 5,4% và thua lỗ 15,2%; doanh thu bình quân 11,2% (số liệu năm 2005).Đồng thời khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ được vai trò quan trọng :”Lực lượng quan trọng trong 1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trò chủ đạo của KTNN từ những bước đổi mới: Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá. Thứ hai, trong những năm lại đây, hoà chung vào xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài rất được phát triển mà chủ yếu là với thành phần KTNN. Điều đó khẳng định là thành phần kinh tế đi đầu trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp Nhà nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mô và vấn đề xã hội như giảm thất nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thôi việc, góp phần xóa đói giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục… Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật của kinh tế thị trư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10485.doc
Tài liệu liên quan