Tiểu luận Kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Một yếu tố không thể không nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịc sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hang ngày ở các cấp khác nhau hiện nay.

Giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn như doanh nghiệp nhf nước có các lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân hang như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của chính phủ dễ dàng hơn.

Luật doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh doanh, Tuy vậy khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm dụng bở một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở dân kinh doanh các ngành nghề mới.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, như: hang may mặc, giầy dép, đồ da, hang thuỷ hải sản, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu… Theo đánh giá của Bộ thương mại, khu vực kinh tế tư nhân mà chủ ếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực thuộc trung ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ lớn nhất cho đất nước trong tương lai. Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở nhiều địa phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch khá lớn giữa các vùng và các tỉnh. Doanh nghiệo ở các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương, trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung còn chưa đáng kể. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của thành phố khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (thành phố Hồ Chí Minh là 12.5%). Nhìn chung tỷ lệ này ở các địa phương là khá thấp dưới 10% tuy nhiên cũng có 1 số cá biệt như: Hà Giang chiếm 60 xuất khẩu của địa phương, Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%. 2.1.4 Đóng góp vào nguồn thu ngân sách cho nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38.5% GDP, cao gấp 5.4 lần tỷ trọng 7.11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2.5 lần tỷ trọng 15.17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39.22% của khu vực kinh tế nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm : nếu năm 2000 mới chỉ chiếm 7.31% thì năm 2005 là 8.91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn cao gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng trưởng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng trưởng của các khu vực khác. So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, ở thành phố Hồ Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu ngân sách địa phương là khoảng 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp là 16%, Gia Lai 22%. Ngoài đóng góp trực tiếp vào ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp còn tích cực tham gia đóng góp xây dựng các công trình văn hoá, trường học, đường giao thông nông thôn, nhà tình nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước. 2.1.5 Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và các cơ chế chính sách của nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vố đầu tư đến quy mô hoạt đoọng, đã góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tác động tích cực này làm tăng thêm vốn đầu tư, thu hút thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế nhờ tăng thêm cạnh tranh trên thị trường… Về sản xuất công nghiệp, giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 16%/năm; giá trị gia tăng bình quân 10,1%; tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng tăng từ 36,7% lên 4%. nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân từ 2006-2010 đạt 7,5-8%, ngành công nghiệp đặt chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010, tỷ trong công nghiệp-xây dựng chiếm 43-44% GDP cả nước. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu:chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, công nghiệp giấy bìa, 30% công nghiệp may mặc…Đến nay doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26.5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, tăng 4.85 điểm phần trăm so với số thực hiện ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2002 và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm 2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp. 2.1.6 Góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ. Trong những năm gần đây đầu tư đổi mới của doanh nghiệp đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mang theo những công nghệ và kỹ năng quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng dụng các công nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so với yêu cầu phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu công nghệ, làm chủ công nghệ và sang tạo công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị. Trong công nghệ nhập khẩu, tỷ trọng giá trị phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu, còn lại chủ yếu là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có động lực nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sang tạo công nghệ. Hàm lượng công nghệ và chất xám trong hang hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động. 2.1.7 Góp phần nâng cao trình độ lao động và quản lý doanh nghiệp : Doanh nghiệp tư nhân trở thành nơi đào tạo một đội ngũ những nhà kinh doanh chuyên nghiệp, những tài năng kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới của đất nước. Nhân tài quản lý kinh tế chỉ có thể tồn tại trong quá trình vật lộn trên thương trường, trưởng thành trong quá trình đấu tranh gay gắt. Vì vậy kinh tế tư nhân đã góp phần đào tạo nhân tài cho công cuộc quản trị kinh tế đất nước trong tương lai. 2.2 Tiềm năng và lợi thế của kinh tế tư nhân 2.2.1 Tiềm năng: Kinh tế tư nhân nước ta mới được khôi phục và vẫn ở trình độ phát triển thấp nên nhiều khả năng của nó vẫn chưa được khai thác, còn nằm dưới dạng tiềm năng. - Tiềm năng quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là khả năng vô tận của sáng kiến cá nhân trong nhân dân. Kinh nghiệm của các nước và lãnh thổ có nhiều thành công trong phát triển kinh tế (Xingapo, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản …) cho thấy: các tiềm năng bên trong như đất đai, lao động, vốn trong thời kỳ đầu của sự phát triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ sự phát huy được các sáng kiến cá nhân cũng như sự đóng góp tiền của và công sức của đông đảo nhân dân vào việc xây dựng kinh tế, đầu tư kinh doanh; đồng thời có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm nên những kỳ tích trong phát triển kinh tế. Từ khi công cuộc đổi mới ở nước ta tiến hành, nhiều sáng kiến cá nhân của đông đảo nhân dân đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm tòi các hình thức kinh doanh năng động, từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, nguồn tiềm năng này vẫn chưa được chú ý đúng mức nên cần phải có chiến lược đúng đắn để phát huy sáng kiến cá nhân và huy động được mọi nhân tài vật lực cho công cuộc “dân giàu, nước mạnh” như chúng ta đã làm trong chiến tranh trước đây. - Tiềm năng về trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề và những kinh nghiệm sản xuất – kinh doanh bí truyền được tích luỹ qua nhiều đời trong khu vực kinh tế tư nhân là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế nếu biết khơi dậy được những tiềm năng này. - Sự đa dạng của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và sự phong phú của sản phẩm là một tiềm năng quan trọng của kinh tế tư nhân. Thực tế nhiều năm qua ở các nước xã hội chủ nghĩa và ở Việt Nam đều cho thấy: do ngân sách nhà nước bị hạn chế nên số doanh nghiệp nhà nước cũng bị hạn chế vế số lượng và rất nghèo về hình thức tổ chức sản xuất. Sự năng động thích ứng với thị trường nhằm đáp ứng các nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của thị trường đã tạo ra sự đa dạng của hàng hóa. - Khu vực kinh tế tư nhân có tiềm năng lớn về vốn. Khu vực kinh tế tư nhân, nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tích luỹ được những nguồn vốn rất lớn. Nếu các chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo được môi trường thuận lợi và tạo được lòng tin trong nhân dân thì nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. - Khu vực kinh tế tư nhân còn có một tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm cho xã hội.Ở nước ta, hàng năm có khoảng 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động. Ngoài ra, còn có những người lao động bị thất nghiệp do sắp xếp lại sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân. Đó là chưa kể số lượng lớn những người bán thất nghiệp ở nông thôn và thành phố.Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà quốc gia chưa khai thác hết được. - Khu vực kinh tế tư nhân còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu giữa các nước phát triển mạnh. Ở các nước,liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do tư nhân thực hiện, bởi vì kinh tế tư nhân là khu vực năng động và có hiệu quả cao cho nên nó là những đối tác quan trọng trong các liên doanh với nước ngoài - Tiềm năng về thị trường.Với số dân tương đối lớn, Việt Nam là thị trường hấp dẫn đối với nhiều nhà kinh doanh trên thế giới. Nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng rất phong phú, đa dạng. Vì vậy, có thể sản xuất những mặt hàng cao cấp để xuất khẩu, cũng có thể sản xuất những mặt hàng thích hợp với giá cả dễ tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, để khai thác tiềm năng của kinh tế tư nhân, điều quan trọng là phải tạo một trường đầu tư thuận lợi, hiệu quả. 2.2.2. Lợi thế - Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân là sở hữu có chủ đích nên cho phép xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quyền hạn, trách nhiệm, quyền lợi. Hơn nữa, do tài sản có chủ nên việc giải quyết những vấn đề như thế chấp, tranh chấp … trong kinh tế thị trường dễ dàng và sòng phẳng. - Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân nên có thể truyền lại cho thế hệ con cháu cả kinh nghiệm, kiến thức và tài sản. Đó là một trong những động lực thúc đẩy nó phát triển không giới hạn. - Mục đích của hoạt động kinh doanh tư nhân thường rõ ràng và đơn giản là thu lợi nhuận. - Các nhà kinh doanh tư nhân phải bỏ tiền của mình vào hoạt động kinh doanh nên phải suy tính cân nhắc kỹ theo cách: “bảy lần đo, một lần cắt”, nhưng lại phải kịp thời để không bỏ qua cơ hội kinh doanh. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp nhà nước khó thực hiện. - Quy mô, hình thức tổ chức sản xuất và loại hình sản xuất rất đa dạng nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường. - Tổ chức bộ máy quản lý rất gọn nhẹ, linh hoạt. Khác với doanh nghiệp nhà nước: nếu quản lý quá chặt chẽ sẽ mất tính năng động, nếu buông lỏng sẽ thất thoát. - Hình thức và khả năng thu hút vốn, lao động rất phong phú. - Đứng về phía quản lý nhà nước thì quản lý kinh tế tư nhân đơn giản hơn, phạm vi tác động rộng hơn và hiệu quả hơn. Thay vì Nhà nước phải nắm bắt tài sản cụ thể của từng doanh nghiệp, tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý doanh nghiệp…như đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc quản lý kinh tế tư nhân chỉ cần ban hành luật, chiến lược, chính sách và kiểm soát sự hoạt động của nó. 2.3 Hạn chế của kinh tế tư nhân 2.3.1. Những hạn chế của kinh tế tư nhân - Kinh tế tư nhân gắn với lợi ích và động lực cá nhân, nên nếu quản lý không tốt thì dễ chạy theo lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân mà quên lợi ích cộng đồng và lâu dài. - Mang trong mình tính tự phát vô chính phủ nên dễ dẫn đến đổ vỡ nếu quản lý nhà nước không tốt (cuộc đại khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa năm 1929-1933 là một ví dụ điển hình). - Kinh tế tư nhân mang tính chất tối ưu hóa cục bộ, tìm cách cực đại hóa lợi nhuận nên dễ bỏ qua những lĩnh vực không có lợi về kinh tế nhưng lại rất cần cho xã hội, đồng thời dễ triệt tiêu lẫn nhau trong cạnh tranh. - Ngoài ra kinh tế tư nhân Việt Nam có đặc điểm là quy mô nhỏ, phân tán nên khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế còn nhiều hạn chế và hoạt động kinh doanh trên thị trường còn mang nhiều yếu tố chụp dật, kinh doanh thiếu văn minh. - Trình độ kỹ thuật và kỹ năng quản lý còn hạn chế, khó phản ứng được trước những tác động từ bên ngoài hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiên thong về thị trường. - Khả năng tài chính còn hạn chế, dẫn đến quy mô kinh doanh nhỏ bé, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Kém hiểu biết pháp luật 2.3.2 Những vấn đề bức xúc cần giải quyết. - Mặc dù nhiều giấy phép và các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường đã bị bãi bỏ, song vẫn còn nhiều loại giấy phép đang tồn tại và một số giấy phép được ban hành dưới những hình thức trá hình như giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn; - Một số cơ quan, cá nhân thực thi pháp luật chưa làm đúng chức trách, bổn phân của mình còn gây sách nhiễu cho hoạt động của doanh nghiệp. - Một số doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh nhưng trên thực tế không hoạt động kinh doanh và được gọi là các “doanh nghiệp ma” được thành lập với mục tiêu “kinh doanh tên tuổi”,”kinh doanh con dấu” với những hợp đồng ma, buôn bán hoá đơn. - Vấn đề hậu kiểm được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhưng trên thực tế vẫn chưa được thực hiện tốt, còn nhiều hạn chế. - Về hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh, nhìn chung chất lượng quy hoạch của nhiều địa phương kém, do vậy các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất kinh doanh vẫn là cấn đề bức xúc. Nhiều địa phương áp dụng các chính sách ưu đãi về tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế chuyển mục đích sử dụng đất với các mức chênh lệch tương đối cao nhằm thu hút đầu tư đã gây ra tình trạng cạnh tranh không đáng có. Bên cạnh đó sự phối hợp giữa các cơ quan trong lĩnh vực đất đai còn rất hạn chế, do quy định về phân cấp quản lý đất đai chưa rõ ràng. - Vấn đề chuyển đổi đất đai, nhất là đất canh tác sang làm mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp đang là vấn đề nan giải, phức tạp chưa được tháo gỡ, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư chung của nhiều tỉnh - Về phía doanh nghiệp,lợi dụng chính sách thu hút đầu tư, công tác quản lý chưa chặt chẽ, không thiếu doanh nghiệp cố gắng bằng mọi cách có được đất và đầu tư cầm chừng chờ đợi biến động giá đất để kiếm lời. - Doanh nghiệp khó tiếp cận được tín dụng ưu đãi đầu tư của Nhà nước. Quỹ hỗ trợ phát triển là tổ chức tài chính nhà nước, thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của nhà nước, hỗ trợ xuất khẩu và một số nhiệm vụ khác, Các hình thức hỗ trợ chủ yếu của Quỹ là: cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, cho vay tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu và bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. - Theo phản ánh của nhiều địa phương đến nay thủ tục hồ sơ đề nghị cấp tín dụng ưu đãi vẫn còn rườm rà, phức tạp, quy trình xét cấp kéo dài do phải di qua nhiều đầu mối, một số quy định về thủ tục không thiết thực đối với doanh nghiệp. Việc phải có tài sản thế chấp làm cho nhà đầu tư, đặc biệt các chủ doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận được đến nguồn tín dụng của quỹ HTPT. Một thực tế diễn ra là thời gian phê duyệt thủ tục vay ưu đãi kéo dài , làm cho các nhà đầu tư mất cơ hội kinh doanh. Theo quy định, thời gian phê duyệt thủ tục vay ưu đãi là 20 ngày, nhưng trên thực tế thì nhà đầu tư phải chờ đợi nhiều tháng. Tình trạng các dự án đã được cấp ưu đãi đầu tư năm trước, đến năm sau mới được xem xét về tín dụng ưu đãi còn diễn ra phổ biến trong quy trình xét cấp ưu đãi. Hầu hết các dự án được vay ưu đãi đều phải quy quỹ HTPT của trung ương thẩm định lại rồi mới được giải ngân, do vậy gây ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp. Nhìn chung, việc cho vay đầu tư của hệ thống quỹ HTPT chỉ được thực hiện đối với các dự án đầu tư thuộc một số ngành, lĩnh vực chương trình kinh tế lớn của nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Doanh nghiệp dân doanh bị hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước. Ngoài nguyên nhân trên, kinh tế tư nhân không vay đ­îc vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chủ yếu do thủ tục vay còn quá rườm rà, khó khăn, thời gian quá lâu khiến doanh nghiệp dân doanh không thể chờ được. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa phát huy hết vai trò của quỹ HTPT. Số dự án được vay từ quỹ không nhiều. Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng còn chưa được phổ biến rộng rãi đến doanh nghiệp. - Thay đổi chính sách thuế gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Từ cuối năm 2002 do tác động của thuế môn bài tăng cao bất hợp lý, hang trăm doanh nghiệp tư nhân đã giải thể chuyển thành hộ kinh doanh cá thể, thuế môn vài ở mức cao cũng đã hạn chế phần nào việc mở rộng quy mô kinh doanh qua việc giảm mở thêm chi nhánh của hang mới, giải thể, đóng cửa các chi nhánh… ở những vùng khó khăn kinh doanh chưa có lãi. - Thủ tục hành chính phức tạp gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp nhiều doanh nghiệp phải chạy vòng vèo nhiều thủ tục trong vòng 1 năm thậm chí 2 năm trong khi luật quy đinh chỉ là 2 tháng. 2.4 Nguyên nhân của tình hình. 2.4.1 Vẫn tồn tại sự phân biệt đối xử đối với khu vực tư nhân. Một yếu tố không thể không nói đến là các nhà kinh doanh tư nhân vẫn có tâm lý dè dặt trong đầu tư và sản xuất kinh doanh. Sự lo ngại này có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố trong lịc sử chính sách phát triển kinh tế của đất nước, cũng như từ thực tế diễn ra hang ngày ở các cấp khác nhau hiện nay. Giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân còn tồn tại nhiều phân biệt đối xử, cả trong việc đề ra chính sách lẫn trong việc thực hiện chính sách, chẳng hạn như doanh nghiệp nhf nước có các lợi thế hơn so với doanh nghiệp tư nhân trong vay vốn ngân hang như thủ tục và điều kiện vay dễ dàng hơn, không phải thế chấp, dễ dàng thuê đất hơn, tiếp cận tín dụng ưu đãi của chính phủ dễ dàng hơn. Luật doanh nghiệp quy định rõ việc cấm và hạn chế một số lĩnh vực kinh doanh, Tuy vậy khái niệm “các lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm” đang bị lạm dụng bở một số cơ quan có thẩm quyền nhằm cản trở dân kinh doanh các ngành nghề mới. 2.4.2 Những nguyên nhân từ cơ chế chính sách. Hiện nay có 4 rào cản chính đang hạn chế sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đó là: - Hiện đang tồn tại mâu thuẫn: đổi mới kinh tế đang được đẩy mạnh, Đảng và nhà nước đã đề ra những quyết sách để phát huy tiềm năng của cá thành phần kinh tế, hâm nóng lại môi trường đầu tư trong nhân dân và doanh nghiệp, nhưng bộ máy quản lý nhà nước và công chức chuyển không kịp. Bộ máy chưa được sắp xếp theo yêu cầu của thể chế mới, đang còn nhiều trường hợp bộ máy trùng lặp, nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng đùn đẩy, trách nhiệm không rõ rang. Vẫn còn không ít công chức lưu luyến cung cách quản lý cũ, không chịu rời bỏ thứ quyền lực đã nhiều năm gây phiền hà cho doanh nghiệp - Còn tồn tại nhiểu thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết hoặc bất cập với yêu cầu thực tiễn, dẫn đến không những tạo cơ hội phát triển tệ sách nhiễu, tham nhũng của các cơ quan và công chức hành chính, mà còn có thể khiến doanh nghiệp mất cơ hội kinh doanh tốt, hoặc phải trả giá đắt hơn các giao dịch làm ăn của mình. - Hiện nay có hiện tượng là văn bản pháp quy do bộ, ngành nào dự thảo thì thường nghiêng về quyền lực và lợi ích của bộ, ngành đó, không đứng về phía người thi hành là doanh nghiệp, thậm chí không đứng về lợi ích của toàn xã hội, do đó nhiều văn bản không khả thi, không di vào cuộc sống, ngược lại, gò bó trói buộc người dân và doanh nghiệp. - Trên lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, chính phủ đã có Nghị định 64, ngày 15-8-1998 quy định rõ về công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không nhiều doanh nghiệp dám thực hiện quyền “từ chối” của mình trong trường hợp thanh tra, kiểm tra không đúng pháp luật. Bởi lẽ, doanh nghiệp kiện cơ quan hành chính là việc “dân kiện quan” rất không dễ dàng, nên phần lớn đều tìm giải pháp mềm dẻo hơn để được việc và khỏi mất thời gian. Nguyên nhân chính của tình trạng này là cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và bộ máy của Toà Hành chính đang còn nhiều bất cập. 2.4.3 Nguyên nhân của bản thân doanh nghiệp. 2.4.3.1 Khó khăn về vốn Vốn của doanh nghiệp tư nhân là ít nhất, 85% doanh nghiệp hoạt động với số vốn dưới 1 tỷ.Tình trạng thiếu vốn diễn ra rất phổ biến do bản thân doanh nghiệp của tư nhân mới được thành lập và phát triển nên vốn đầu tư và tài sản ít. Mặt khác, các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó tiếp cận các nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại nhất, tiếp cận nguồn vốn cho vay ưu đãi còn khó hơn. Đơn giản chỉ vì họ không có tài sản có giá trị tương ứng để thế chấp. Vì thế, để có vốn, họ thường xuyên phải vay với lãi suất cao. 2.3.3.2 Khó khăn về mặt bằng sản xuất. Khó tìm kiếm mặt bằng sản xuất cũng như thiếu các điều kiện hạ tầng sản xuất cần thiết là tình trạng chung của khu vực kinh tế tư nhân. Vì chậm trong việc quy hoach mặt bằng dành cho các hoạt động sản xuất công nghiệp, nên các doanh nghiệp tư nhân thường không có cơ hội thuê được đất địa phương để xây dựng nhà xưởng. Các khu công nghiệp lớn, có cơ sở hạ tầng hiện đại, giá thuê đất cao, thường chỉ thích hợp cho các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước mà không phù hợp cho các doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân , vốn chủ yếu có quy mô nhỏ và eo hẹp về tài chính. Trước tình hình giá đất luôn cao như hiện bay cùng với việc doanh nghiệp tư nhân thường là đi thuê đất ngắn hạn(đất nhà ở hoặc mặt bằng doanh nghiệp nhà nước) để sản xuất làm cho các doanh nghiệp không dám đầu tư dài hạn cho máy móc và thiết bị dẫn đến qui mô sản xuất nhỏ. 2.3.3.3 Khó khăn về tìm kiếm nguồn nguyên liệu đặc biệt là nguồn nguyên liệu nhập. Môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước phát triển như nước ta. Sự bất công bất bình đảng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trong nhiều lĩnh vực trong đó có nguồn nguyên liệu. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia luôn tìm cách lái thị trường theo họ do vậy chúng ta gặp khá nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu đặc biệt là nguồn nguyên liệu ngoại nhập. 2.4.3.4 Khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước còn quá nhỏ bé và tăng trưởng chậm do thu nhập của dân cư còn quá thấp và tăng chậm. Chiến lược công nghiệp hoá mà thay thế nhập khẩu với các dự án đầu tư lớn, ít việc làm đã làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư chậm được cải thiện. Kết quả là thị trường tiêu thụ trong nước đối với các sản phẩm của họ phát triển chậm. Về xuất khẩu, doanh nghiệp tư nhân gặp phải những khó khăn chính là: tiếp cận hạn ngạch xuất khẩu còn hạn chế (doanh nghiệp nhà nước vẫn có ưu thế hơn); thiếu thông tin về thị trường và đối tác nước ngoài, tiếp thị chưa đạt hiệu quả cao; tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm xuất khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp tư nhân; thủ tục hải quan còn phức tạp, phiền toái, việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu không rõ ràng do mã thuế không đầy đủ. Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân gặp phải các khó khăn là: ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có điều kiện trưng bày và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu nhân viên có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế. 2.4.3.5 Khó khăn về quản lý,nguồn nhân lực. Đội ngũ các nhà kinh doanh tư nhân ở Việt Nam chủ yếu được hình thành trong những năm 90. Vì vậy, họ còn thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường… Khó khăn chính về nguồn nhân lực là thiếu cán bộ kỹ thuật như kỹ sư có trình độ và thợ lành nghề bậc cao. Do thái độ của xã hội là chưa coi trọng khu vực kinh tế tư nhân, nên nhiều người có trình độ cao ngại làm việc cho khu vực này. Đối với doanh nghiệp tư nhân việc tiếp cận các dich vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp có nhiều hạn chế, chủ yếu là do nguồn ngân sách cho việc đào tạo này còn rất hạn hẹp. III. Các giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 3.1 Thống nhất quan điểm. Hội nghị trung ương đảng 5 khoá IX khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, vì vậy cần thống nhất một số quan điểm sau: Cầu quán triệt quan điểm: Tạo sự bình đẳng thực sự tức là không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa kinh tế tư nhân với các khu vực, các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận các yếu tố đầu vào: đất đai, vốn, lao động, công nghệ… Nếu không có sự bình đẳng thực sự sẽ hạn chế, thực tế có thể dẫn đến triệt tiêu mất động lực phát triển của kinh tế thị trường. Mặt khác kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phân định hướng xã hội chủ nghĩa. Để kinh tế tư nhân làm tốt vai trò trên thì không thể không tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa kinh tế tư nhân và các khu vực các thành phần khác trong nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế tư nhân nhiều thành phần, không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế. Điều cần lưu ý là doanh nghiệp nhà nước cần cạnh tranh bình đẳng trên thương trường. Không nên dựa vào giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế mà lấn át

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35831.doc