Tiểu luận Kỹ thuật quân sự

Quá trình tên lửa bay ngoài không gian là một quá trình hết sức phức tạp , dẫn đến việc điều khiển tên lửa gặp nhiều khó khăn và mục tiêu luôn chuyển động ngẫu nhiên ta không thể biết trước được . Qúa trình tên lửa tiếp cận mục tiêu luôn chịu tác động nhiễu loạn , ngoại kích do đó gây sai số trong quá trình điều khiển . Người ta chia quá trình điều khiển ra làm hai loại .Giai đoạn động học điều khiển ta giả thiết như sau : Ta coi tên lửa như một chất điểm chuyển động và có vận tốc VP xác định . Qúa trình này ta chỉ nghiên cứu quan hệ giữa quĩ đạo chuyển động của tên lửa với thời gian đưa tên lửa vào quĩ đạo . Có nghĩa là không quan tâm đến các nguyên nhân gây ra chuyển động cũng như tác động ngoại kích .

 

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Kỹ thuật quân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương tiện tiến công đường không ,tên lửa ngày nay cơ bản đã khắc phục dược nững hạn chế mà máy bay khó vượt qua. Tên lửa, máy bay, tác chiến điện tử hỗ trợ cho nhau tạo thành sức mạnh thực sự của lực lượng tiến công đường không. Ví dụ như trong cuộc chiến tranh côsôvô Mỹ đã sử dụng tên lửa Tomahawk được điều khiển qua vệ tinh quân sự kết hợp với máy bay ném bom vào các căn cứ và giao thông ở côsôvô. Mặc dù vậy tên lửa ngày nay vẫn bị hạn chế bởi các hệ thống phòng không mà điển hình như Patriốt ,mạng lưới rađa quốc gia hay các loại tên lửa chống tên lửa. Điều đó cũng không thể phủ nhận ưu điểm của tên lửa như tính linh hoạt và đa dạng. Nó có thể phóng đi từ bệ phóng tên lửa cố định trên mặt đất, phóng dưới hầm ngầm, phóng trên các xe cơ giới, tàu nổi, tàu ngầm và trên máy bay. Đầu đạn mà tên lửa có thể mang là hạt nhân, hoá học, sinh học tuỳ từng mục đích khác nhau. Diện phản xạ rada nhỏ, khả năng lọt qua hệ thống phòng không lớn hơn máy bay. Với khả năng bay xa của tên lửa nên sự hỗ trợ và phát triển lực lượng trên không có thể tiêu từ hàng trăm, hàng nghìn km. Những ưu điểm cho chúng ta thấy tên lửa trở thành một lực lượng đột kích quan trọng. Trong khi lực lượng phòng không hiện đại quốc gia không ngừng phát được phát triển và hoàn thiện thì việc sử dụng tên lửa vào các trung tâm chính trị, quân sự và các mục tiêu quan trọng nằm sâu trong lãnh thổ đối phương sẽ tạo ra tính bất ngờ và mở đường cho không quân xuất kích, giảm thương vong cho binh lính. Nhưng muốn bảo đảm hoà bình cho quốc gia mình thì tên lửa là phương tiện tiến công tối ưu,vừa có thể sử dụng độc lập vừu có thể sử dụng tác chiến hợp đồng quân binh chủng nhưng nó cũng khoong phải là loại vũ khí bất khả chiến bại mà càng đánh nó càng bộc lộ những nhược điểm lớn. Đó là cơ sở khai thác để tối ưu hoá hệ thống phòng chống đảm bảo an ninh quốc gia. Hiện nay có nhiều loại tên lửa và cũng có nhiều cách điều khiển khác nhau. Loại tên lửa dùng để phòng thủ( Anti- Missile) là một loại tên lửa có điều khiển để đánh chặn mục tiêu. Vận tốc của nó đạt tới Mach 10. Lịch sử phát triển của tên lửa chống tên lửa gắn liền với sự phát triển của tên lửa nói chung, nhất là tên lửa xuyên lục địa mang đầu đạn hạt nhân. Loại tên lửa này có ưu điểm bảo vệ được vùng trời của mục tiêu từ xa, chống được các loại tên lửa đường đạn, tên lửa hành trình chiến thuật, chiến dịch và chiến lược, chống cả máy bay nếu cần. Nó có thể phóng được cả trên chiến hạm, từ trên không, tren bộ và có thể cơ động hay cố định. Hiện naycó các hệ thống tên lửa, chống tên lửa hiện đại là Patriot của Mỹ do hãng Raytheon sản xuất vào đầu thập kỷ 70. Mỗi bệ phóng của tên lửa gồm bốn ống phóng kiem luôn chức năng container vận chuyển, cất giữ. Một trận địa tên lửa Patriot gồm một đài rada mạng pha đa chức năng AN/MPQ-53, một xe điều khiển, một xe nguồn và 8 bệ phóng. Xe điều khiển được trang bị máy tính điện tử để điều khiển vũ khí. Bộ nhớ của máy tính chứa được 52 từ khoá và sử dụng 4 phần mềm điều khiển. Hệ thống dẫn đường của Patriot thực hiện “ bám qua tên lửa” dẫn theo lệnhvà tự dẫn bán chủ động. Loại S300V của Liên Xô còn hiện đại hơn cả Patriot, nó được phát triển vào những năm cuối thập kỷ 70 hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1987. Khả năng đanhs chặn từ xa cao hơn Patriot của Mỹ rất nhiều và về tầm chiến thuật tương dương với hệ THAAD của Mỹ và tên lửa ERINT của Liên minh châuÂu sắp ra đời. Tên lửa đường đạn (tên lửa đạn đạo) dường bay của loại tên lửa này gồm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu giúp tên lửa bay lên do lực đẩy của động cơ phóng, còn hướng bay do hệ thống điều khiển sắp sẵn sao cho khi động cơ phóng ngừng hoạt động thì tên lưả nằm đúng vào phương tính toán hướng vào mục tiêu đánh phá Giai đoạn thứ hai (thụ động ) tên lửa bay theo quán tính của đường cong đạn đạo. Loại tên lửa này có tầm bay khoảng từ 800km đến hơn10000km. Động dơ phóng chủ yếu dùng thuốc phóng lỏng. Có thể phóng từ tàu ngầm, tàu nổi, máy bay hay trên mặt đất. Tên lửa đạn đạo chỉ dùng để tấn công vào các mục tiêu xác định như khu công nghiệp, bến cảng, nút giao thông, khu căn cứ quân sự ...Ưu điểm lớn nhất của nó là có thể mang đầu đạn hạt nhân, hoá học. Tốc độ bay của tên lửa rất cao, nó có thể đạt tới hàng nghìn km/giờ và bay ở độ cao rất lớn nên khó đánh chặn. Xét về cội nguồn thì có thể coi tên lửa V.2 của Đức đánh phá London tháng 9-1944 là loại ten lửa đường đạn đầu tiên được đưa vào sử dụng. Trong chiến tranh Iran-Iraq, tên lửa đường đạn được mang đầu đạn hoá họcđến chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, tên lửa Scud được Iraq sử dụng để tấn công các mục tiêu trên đất Isarel. Loại tên lửa “phóng và quên” là một loại vũ khí điều khiển chính xác có thể tìm đến mục tiêu đã định không cần dến bất cứ một sự can thiệp nào từ bên ngoài. Nhờ ưu điểm này mà sau khi phóng thiết bị mang- phóng lập tức có thể di chuyển để tìm mục tiêu khác hoặc tránh đòn đánh trả của đối phương. Chính là do xác suất bắn trúng các loại máy bay ngày càng caomà người ta nghĩ đến một loại tên lửa có thể phóng và tự tìm mục tiêu. Đó cũng là bối cảnh hình thành khái niệm “phóng bỏ chạy”, “ phóng và quên” . Năm 1971, Mỹ đã thử thành công loại tên lửa bám vết tia laser. Và chính loại tên lửa này đã sử dụng vào chiến tranh Việt Nam khi đánh phá cầu Hàm Rồng (Thanh Hoá). Năm 1973, Mỹ đầu tư chế tạo loại tên lửa Hellfire có khả năng sử dụng nhiều loại thiết bị dẫn khác nhau (laser, sóng milimet, hồng ngoại...). Năm 1984, tại Libi, Mỹ đã sử dụng lần đầu tiên loại tên lửa HARM. Tên lửa này có vận tốc cao mhơn loại tên lửa Shrike đã sử dụng ở Việt Nam. Hơn nữa loại tên lửa này có thể bám nhớ rada sau khi đã tắt cánh sóng. Rong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, ngoài sử dụng hai loại tên lửa Hellfire và HARM rộng rãi, Mỹ và Anh còn sử dụng loại TLAM. Loại tên lửa hành trình là loại tên lửa có cánh nâng khí động mang đầu đạn thông thường hoặc hạt nhân, hoá học, tên lửa được lắp động cơ phản lực không khí, hoạt động như một máy bay không người lái, phản lực mang lượng nổ. Động cơ phản lực tĩnh sử dụng oxy trong khí quyển làm chất oxy hoá. Nó có thể phóng từ bệ phóng cơ động trên bộ, trên tàu và trên máy bay. Độ cao có thể đạt được từ 20m-40km và với tốc độ 4500km/giờ, tầm bay từ 100-1000km. Độ cao bay của tên lửa có thể thay đổi tuỳ theo địa hình, để chống rada phát hiện. Sơ khai của tên lửa hành trình là bom bay V.1 của Đức dùng để tấn công London vàg các trung tâm công nghịêp của Anh trong chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh chúng không ngừng phát triển, Mỹ đã cho ra đời loại BGM-109 TOMAHAWK với các biến thể BGM-109A TLAM-N mang đầu đạn hạt nhân, dẫn đường so sánh địa hình TERCOM, tầm bắn 2500km thuộc loại tấn công mặt đất. BGM-109B, tên lửa chống tàu chiến tầm bay 460km. BGM-109C mang đầu đạn thông thường tấn công mặt đất tầm bắn 1290km phóng từ tàu chiến sử dụng hệ dẫn đường TCOM và có bộ hiệu chỉnh số DSMAC. Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, Mỹ đã sử dụng loại tên lửa TOMAHAWK BGM- 109C tấn công Iraq ngay từ đầu. Tổng cộng có 290 tên lửa TOMAHAWK được bắn từ tàu ngầm và cả tàu nổi vào các mục tiêu quân sự, dân sự với xác suất trúng đích trên 90%. Nhưng đến lần trừng phạt Iraq thứ hai (chiến dịch bão táp sa mạc) năm 1994. Mặc dù tên lửa TOMAHAWK đã qua nâng cấp và cải tiến nhưng xác suất trúng đích chỉ đạt 60% với số lượng 30 quả. Từ đó loại tên lửa này ngày càng được cải tiến về công nghệ xử lý tin tức thời và tàng hình để phát huy thế mạnh của có. Trong tác chiến trên biển, tên lửa hành trình cũng tỏ ra là một loại vũ khí lợi hại. Năm 1967, lần đầu tiên tên lửa hành trình đối hạm do Liên Xô sản xuất đã đánh chìm tàu khu trục Eilat nổi tiếng của Isarel. Năm 1982, trong chiến tranh Malvinat, tên lửa đối hạm Exocet do Pháp sử dụng bắn hỏng và chìm nhiều tàu chiến của Anh. Nhược điểm của tên lửa hành trình là độ cao hoạt động thấp, tốc độ bay chậm, không cơ động nên dễ bị tiêu diệt bằng vũ khí bộ binh có thể rất thô sơ. Điển hình là trong chiến tranh Iraq lần thứ hai năm 1994. Loại tên lửa này ngày càng được nâng cao, cải tiến vận tốc giảm thời gian lập trình và tăng khả năng chống nhiễu. Để phát triển và nâng cao tên lửa tạo thành vũ khí có hoả lực mạnh khoa học kỹ thuật công nghệ cao còn đem lại những vĩ khí phi truyền thống phối hợp và đánh phá cùng tên lửa, nhưvũ khí chùm hạt, vũ khí laser, vũ khí siêu keo, vũ khí âm thanh, phao điện từ vô hình...Các phương tiện trinh sát vệ tinh, trinh sát chụp ảnh, chế áp điện tử, vệ tinh báo động sớm tên lửa đường đạn, máy bay cảnh giới...Tầm quan trọng của tên lửa trong chiến tranh công nghệ cao. Như vậy để đánh trả được là trách nhiệm thuộc về quân chủng phòng không quốc gia. Như đã nói mọi sự kiện đều có hai mặt của nó, có mặt yếu và mặt mạnh. Người anh hùng của dân tộc Việt Nam, một trong 22vị tướng tài của thế giới Trần Quốc Tuấn đã nói: “Đánh địch phải tránh chỗ sắc nhọn, tìm chỗ hiểm yếu mà đánh...” Một bằng chứng hùng hồn trong chiến tranh hiện đại là việc nam tư dùng sóng ra đa hệ mét từ thời cổ xưa để phát hiện máy bay tàng hình F117_A của Mỹ. Loại máy bay này không phãnạ với sóng hệ mét. Yếu điểm của máy bay F117_A còn ở lưng và khoang chứa bom không tàng hình được nên khi thả bom, rada có thể phát hiện được và vệ tinh từ trên cao cũng có thể phát hiện được . yếu điểm nữa của máy bay tàng hình là khí động học ,tốc độ bay chậm, tính cơ động không cao nên khi phát hiện được thì dễ bắn trúng. Trong chiến tranh ở côsôvô quân đội Nam Tư đã hạ được F117_A. để đánh trúng mục tiêu thì nguyên lý điều khiển tên lửa cũng phải được phát triển nhờ khoa học kỹ thuật cao. điều khiển tên lửa, đôi khi còn gọi là lái tên lửa là một quá trình trong đó sự chuyển động của tên lửa được thay đôỉ về tốc độ và hướng phóng để thực hiện một ý đồ nhất định. điều khiển tên lửa trong khi bay bao gồm điều khiển tâm khối của tên lửa theo quỹ đạo và điều khiển sự quay của tên lửa quanh tâm khối. Điều khiển tên lửa gồm 3 bộ phận là: Xác định đường bay, lập lệnh điều khiển và thực hiện điều khiển. Hệ thống làm chức năng xác định đường bay của tên lửa so với quỹ đạo thực và lập lệnh điều khiển gọi là hệ thống dẫn có các phương pháp điều khiển là tự lập, phương pháp điều khiển từ xa, tự dẫn và kết hợp. Các hệ thống điều khiển Điều khiển từ xa Tự dẫn Tự dẫn chủ động Tự dẫn bán chủ động Tự dẫn thụ động Điều khiển bằng lệnh Định hướng từ xa -phương pháp tự lập là tín hiệu điều khiển được xử lý trên tên lửa và đảm bảo tên lửa chuyển động theo một quỹ đạo định trước. Có thể thực hiện dẫn tự lập nhờ hệ thống dẫn đường quán tính, hệ thống dẫn đường định vị thiên thể cũng như các hệ thống dẫn đường theo chương trình khác. Nguyên lý dẫn quán tính được dùng rộng rãi cho tên lửa chiến lược. -Phương pháp điều khiển từ xa là tín hiệu điều khiển được xử lý tại một trạm điều khiển đảm bảo đưa tên lửa tới mục tiêu đã định trước. Nguyênlý này được dùng cho tên lửa bắn mục tiêu cơ động như xe tăng, máy bay,tàu chiến ...dựa theo phương thức đưa lệnh điều khiển tới tên lửa,người ta có nhiều hình thức điều khiển như điều khiển bằng dây, điều khiển bằng vô tuyến. Ngoài ra còn có phương thức dẫn theo tia. Khi đó tên lửa tự điều chỉnh để bay dọc đường tâm của tia tới mục tiêu. -Phương pháp tự dẫn là phương pháp mà tín hiệu điều khiển được xử lý trên tên lửa theo một thông tin đặc trưngdưới dạng một bức xạ năng lượng hoặc phản xạ từ mục tiêu. Các hệ thống tự dẫn thường được dùng cho các loại tên lửa phòng không tầm gần hoặc tự dẫn giai đoạn cuối. Tự dẫn được phân biệt theo cách bố trí nguồn bức xạ năng lượng. Tự dẫn chủ động, bán chủ động khi nguồn đặt trên tên lửa,tự dẫn thụ động khi nguồn phát ra từ mục tiêu. Hệ thống điều hành có nhiệm vụ làm khuếch đại tín hiệu điều khiển, dẫn động thiết bị lái (cánh lái, loa phụt, động cơ rocket...)sao cho tên lửa đi theo đường bay mong muốn tuỳ theo quỹ đạo tên lửa ở các giai đoạn phóng, hành trình tiếp cận mục tiêu mà tương ứng có những giai đoạn điều khiển thích hợp. -Phương pháp kết hợp điều khiển có thể trong các giai đoạnkhác nhau và trong cùng một giai đoạn. Ví dụ như dẫn theo quán tính gia đoạn đầu và tự dẫn giai đoạn cuối hay vừa kết hợp lệnh vô tuyến vừa tự dẫn giai doạn cuối. Phương pháp này loại bỏ được khả năngbị vô hiệu hoá một trong những hệ thống dẫn. Sự phát triển của thiết bị điều khiển cũng gắn liền với sự phát triển của công nghệ thông tin, điện tử và kỹ thuật công nghệ tên lửa. Năm 1907,R. Lautin-người Pháp đã chế tạo thành công ngư lôi bay(torpille aérienne) một kiểu ngư lôi ổn định bằng con quay và điều khiển bằng vô tuyến được sử dụng để oanh tạc Berlin trong chiến tranh thế giới thứ 1. Năm 1925 xuất hiện tên lửa đầu tiên điều khiển theo sóng rada. Đầu chiến tranh thế giới thứ hai, Đức phát triển tên lửa vô tuyến. Năm 1944 xuất hiện tên lửa V.2 của Đức dùng hệ thống dẫn đường quán tính. Trong những năm 50 và 60 với Sự bùng nổ của kỹ thuật, điieù khiển tên lửa ngày càng phát triển và hoàn thiện. Đầu những năm 70 xác suất trúng đích của tên lửa có điều khiển bé hơ bán kính sát thương của đầu đạn. Từ đó bắt đầu xuất hiện khái niệm vũ khí “thông minh”,”phóng và quên”...Nhờ có trang bị máy tính điện tử mà chúng có khả năng nhận biết, lựa chọn mục tiêu, lọc nhiễuvà khả năng lập lại chương trình. Chất lượng các sensor ngày càng được nâng cao, cho phép phát hiệnkhông chỉ do trọng tâm của mục tiêumà còn theo cả đường viền của mục tiêu. Hiểu theo cách khác là chung không những nhận biết nguồn bức xạ mà chúng còn khả năngnhận biết cả hình dạng kích thước và nhiều tham số khác của nguồn. Máy phát , máy thu của tên lửa , mục tiêu Máy phát của tên lửa Mã hoá lệnh điều khiển Hệ thống tạo lệnh điều khiển Xác định toạ độ mục tiêu , tên lửa Hệ thống chỉ huy hiện hình Quá trình tên lửa bay ngoài không gian là một quá trình hết sức phức tạp , dẫn đến việc điều khiển tên lửa gặp nhiều khó khăn và mục tiêu luôn chuyển động ngẫu nhiên ta không thể biết trước được . Qúa trình tên lửa tiếp cận mục tiêu luôn chịu tác động nhiễu loạn , ngoại kích do đó gây sai số trong quá trình điều khiển . Người ta chia quá trình điều khiển ra làm hai loại .Giai đoạn động học điều khiển ta giả thiết như sau : Ta coi tên lửa như một chất điểm chuyển động và có vận tốc VP xác định . Qúa trình này ta chỉ nghiên cứu quan hệ giữa quĩ đạo chuyển động của tên lửa với thời gian đưa tên lửa vào quĩ đạo . Có nghĩa là không quan tâm đến các nguyên nhân gây ra chuyển động cũng như tác động ngoại kích ... Hệ thống điều khiển tên lửa là lý tưởng có hàm truyền là vô cùng KƠ(P) và cũng không có khâu giữ chậm . Như vậy tên lửa chuyển động theo quỹ đạo gọi là quỹ đạo tính toán để tiếp cận mục tiêu có xác suất cho trước . Từ đó ta xây dựng được cự ly bay tên lửa vùng phóng , vùng sát thương , tính cơ động cần thiết , cự ly giữa cặp tên lửa và mục tiêu .Giai đoạn động lực học điều khiển : Giai đoạn này nghiên cứu các nguyên nhân gây ra chuyển động cụ thể giải quyết . Người ta giả thiết tên lửa là một khâu động học mang các đặc tính nguyên thuỷ . Vận tốc của nó được coi như một hằng số và quỹ đạo này là quỹ đạo trong thực tế . Nhiệm vụ của giai đoạn này là xây dựng hệ thống tên lửa điều khiển và đánh giá độ chính xác , sự ổn định của quá trình điều khiển tên lửa . Dựa vào sơ đồ chức năng của hệ thống điều khiển ta có thể thấy được đặc điểm của từng phần tử chức năng . Máy phát rãnh mục tiêu có nhiệm vụ phát dao động điện từ cao tần có độ rộng xung t = 0,4 - 0,5 ms với công suất phát 1 MW ra ngoài không gian có các chu kỳ khác nhau T1 , T2 để đảm bảo tính chất chống nhiễu Trong đó người ta chọn độ dốc sườn trước của xung để đảm bảo không gây sai số về cự ly khi phát hiện mục tiêu và tăng khả năng phân biệt mục tiêu . Khi tín hiệu gặp mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng lớn hơn 0,5 m2 thì phản xạ lại đưa tới anten thu rãnh mục tiêu . Máy thu tách sóng đưa tới màn hiện sóng để chọn mục tiêu để tiêu diệt . Một đường khác được đưa tới hệ thống xác định mục tiêu thông báo các mục tiêu tức thời . Khi mục tiêu vào giới hạn cho phép bắn tên lửa , tên lửa được bắn ra ngoài khoảng không gian và thường xuyên thông báo toạ độ tức thời của nó .Tín hiệu được đưa về anten máy thu , một đường đưa tới hệ thống hiện hình , đường còn lại đưa tới hệ thống xác định toạ độ với các giá trị tức thời . Đầu ra của hệ thống xác định toạ độ được đưa tới thiết bị trừ để tạo ra các giá trị sai lệch về góc và cự ly ( khoảng cách ) và được đưa tới hệ thống tạo lệnh điều khiển . Căn cứ vào các giá trị sai lệch DR , De , Db và phương pháp điều khiển để hệ thống tạo lệnh điều khiển . Hệ thống tạo lệnh điều khiển đưa ra các dạng điện áp 1 chiều biến đổi chậm đưa tới hệ thống mã hoá lệnh điều khiển đảm bảo quả tên lửa thứ nhất không nhầm lẫn với quả tên lửa thứ i khác , đồng thời không để cho địch chế áp nhiễu . Dao động cao tần được đưa tới anten dạng dây xoắn bức xạ phát ra ngoài khoảng không gian . Tên lửa nhận được tín hiệu điều khiển làm nhiệm vụ hoàn mã lệnh lấy lại giá trị điện áp điều khiển , đưa tới các bộ khuyếch đại khí nén làm lệch cánh lái đi một góc , buộc tên lửa chuyển động về hướng mong muốn . Qúa trình này tiếp diễn cho đến khi tên lửa gặp được mục tiêu . Máy phát và máy thu có thể điều chỉnh cánh sóng để chọn chế độ quan sát ( tránh tên lửa điều khiển theo tia ) . Với chế độ quan sát rộng ( 200 ) cho phép đánh giá trong một miền rộng về tính chất , kiểu loại mục tiêu và chuyển sang trạng thái hẹp tập trung vào một hướng nào đó ( 70 ) . Khi đã chọn được mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng nhỏ chuyển sang chế độ chiếu ( 10 ) . Trong quá trình đánh mục tiêu bay thấp , cánh sóng của mặt phẳng e một phần có thể va chạm xuống đất gây méo dạt cánh sóng nên người ta thay đổi cho hai mặt phẳng e và b chéo cắt nhau 450 . Trong hệ thống xác định toạ độ để tạo ra các giá trị sai lệch về góc và cự ly không bị những sai số trong quá trình thực hiện người ta phải chọn các đặc tuyến ( vòng điều khiển của mục tiêu và tên lửa là hai vòng độc lập ) sao cho tối ưu . Mục tiêu bị biến đổi 2 lần trên anten máy phát và máythu theo các hằng số cos , sin . Tín hiệu tên lửa chỉ bị đột biến 1 lần trên anten máy thu gây ra sai pha trong quá trình xác định toạ độ , gây sai số về góc xác định cự ly . Rãnh mục tiêu luôn luôn gây ra sai số với những tín hiệu thụ động nên có những quá trình thay đổi liên tục tín hiệu thụ động . Người ta chọn sai số của vòng điều khiển rãnh mục tiêu và rãnh tên lửa bằng nhau và bằng 1 rad/s , tần số cắt của các vòng điều khiển khác nhau . Tần số cắt của rãnh mục tiêu từ 2 - 3 rad/s , tần số cắt của rãnh tên lửa từ 5 - 6 rad/s . Hệ thống theo dõi luôn luôn hướng tới bám sát mục tiêu còn mục tiêu lại có xu hướng thoát khỏi vùng quan sát . Để đảm bảo bám sát mục tiêu một cách chặt chẽ thì hệ thống theo dõi điều khiển được cả vị trí và tốc độ vì mục tiêu luôn luôn chuyển động . Tuy nhiên điều khiển về vị trí thì thời gian xác lập nhanh nhưng sai số lớn phụ thuộc rất nhiều vào kíp chiến đấu . Trong hệ thống tạo lệnh điều khiển các hàm theo số góc , cự ly của tên lửa là các hàm theo thời gian . Hệ lập lệnh phải có hàm truyền sau Do vậy tồn tại các đạo hàm bậc cao gây bất ổn định cho hệ thống . Để khắc phục người tađiều khiển tên lửa theo sai lệch thẳng để loại trừ sai lệch .Hệ thống mã hoá lệnh điều khiển : Các giá trị sai lệch De , Db phổ hẹp biến đổi chậm tuân thủ theo định luật Karachicop cho phép phát ra những tín hiệu rời rạc , từ đó cho phép sử dụng các phương pháp mã hoá lệnh . Người ta có vô số phương pháp mã hoá lệnh tuy nhiên thường được sử dụng với hai phương pháp cơ bản và chủ yếu là : Điều tần và điều biên thường được sử dụng cho các tên lửa bắn ở tầm gần, điều chế theo tần số và thời gian sử dụng cho các tên lửa bắn ở tầm xa. Thông thường người ta sử dụng các nhóm mã 3 xung ( HDB3 ... ) . Để thực hiện các hệ thống điều khiển trên cần phải có đài điều khiển và có phương pháp điều khiển thích hợp . Trong thực tế có rất nhiều phương pháp điều khiển như phương pháp điều khiển tiếp cận thẳng , phương pháp điều khiển tiếp cận đuổi ... Khi ta chọn một phương pháp điều khiển nào thì cần xét một số yếu tố Độ cong quỹ đạo nhỏ , đảm bảo cùng một cự ly thì thời gian bay của tên lửa nhỏ tốn ít nhiên liệu , dễ chế tạo . Không đòi hỏi tính cơ động của tên lửa phải lớn , độ cong quỹ đạo nhỏ dẫn đến sai số điểm gặp nhỏ .Phương pháp điều khiển tên lửa phải đảm bảo xác suất tiêu diệt mục tiêu trong mọi điều kiện kể cả trong điều kiện nhiễu .Phương pháp điều khiển phải đơn giản , dễ thực hiện trong các hệ thống điều khiển tên lửa phòng không .Mỗi phương pháp điều khiển đều có ưu , nhược điểm riêng . ở phương pháp điều khiển 3 điểm , tại mọi thời điểm điều khiển tên lửa , trọng tâm của tên lửa luôn nằm trên đường thẳng nối từ đài điều khiển tới mục tiêu . Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản , dễ chế tạo , sai số hệ thống nhỏ .Quỹ đạo của tên lửa không cong mà gần như một đường thẳng , xác suất tiêu diệt tại điểm gặp xác định được , tính chống nhiễu cao không phụ thuộc vào cự ly của mục tiêu . Nhưng phương pháp này lại có nhược điểm không bắn được mục tiêu có vận tốc lớn . Mặt khác khi bắn các mục tiêu lớn thì sai số động học lớn gây quá tải cho tên lửa . q : Góc nghiêng quỹ đạo Nếu thay thì quá tải Hiện nay tên lửa của Nga và Mỹ có h = 10 - 15 có thể bắn mục tiêu có vận tốc lớn hơn 420 m/s .Phương pháp bắn đón : tại mọi thời điểm điều khiển tên lửa trọng tâm của tên lửa luôn vượt trước mục tiêu 1 góc đón Để tránh độ nhạy của vòng điều khiển với mục tiêu cơ động chọn góc đón bằng 0,5 . Khi khai triển tín hiệu chỉ cho phép sai số gia tốc Phương pháp này bắn được mục tiêu với vận tốc lớn và xác suất tiêu diệt cao , quỹ đạo không cong nên sai số động lực học nhỏ . Nhược điểm của phương pháp này là sai số hệ thống cao do hệ thống phức tạp , tính chống nhiễu rất kém phụ thuộc vào cự ly của mục tiêu . Tên lửa phòng không là một trong những vũ khí thuộc phương tiện tiến công đường không được chú ý phát triển . Một trong các lý do đó là nó có xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn và khả năng hoả lực mạnh . Tên lửa phòng không có thể bắn được liên tục nhiều mục tiêu khác nhau ở trên cùng một hướng hoặc khác hướng . Đặc biệt các hệ thống điều khiển tên lửa có thể chống nhiễu tiêu cực bằng cách chọn mục tiêu di động trên nền nhiễu . Do có đặc điểm như vậy nên việc tên lửa tham gia trong các cuộc không chiến đã làm thay đổi phương thức chiến đấu : Các cuộc chiến diễn ra với không gian tác chiến mở rộng biến đổi nhanh chóng và tác chiến trong mọi điều kiện thời tiết liên tục suốt ngày đêm với nhịp độ cao , ác liệt . ý tưởng : Qua đợt học quân sự vừa qua và kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh đặt ra cho tôi một ý tưởng. Trong nghệ thuật chiến đấu ngoài những trận địa phòng không những trận địa thật, giả. Đánh phá gây nhiễu hoạt động đối phương bằng tác chiến điện tử...”Liệu chúng ta có thể đánh trả vào trung tâm điều khiển của địch được không”. Trong chiến tranh công nghệ cao tất cả được điều khiển nhờ trung tâm xử lý và điều khiển. Ví như tên lửa hành trình Tomahawk của mỹ được điều khiển qua vệ tinh quân sự vậy khi địchsử dụng loại tên lửa này để đánh phá ta. Thì ta vừa bảo vệ mục tiêu một mặt ta dùng tên lửa đánh phá vệ tinh quân sự chỉ huy. Chính cách đánh này đã được lực lượng phòng không chúng ta sử dụng vào nhũng năm chiến tranh, khi đó đã bắn rơi máy bay phát tia laser dẫn đường cho bom đánh phá cầu Hàm Rồng. Tóm lại vũ khí trang bị quân sự ra đời và phát triển theo qui luật khách quan của xã hội và tự nhiên. Vũ khí trang bị quân sự là nhu cầu tất yếu của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Bởi vậy ngoài tính chất tàn phá,tiêu diệt khi nằm trong tay kẻ hiếu chiến quân phiệt. Thì sự tăng trưởng ngày càng hoàn thiện của nó là động lực khách quan thúc đẩy sự phát triển của khoa học_ kỹ thuật công nghệ cũng tăng tốc theo. Ví dụ như con người phải mất hàng vạn năm để chuyển từ vũ khí lạnh sang vũ khí nóng,nhưng chỉ mất vài trăm năm để chuyển sang vũ khí hạt nhân và mất vài chục năm để chuyển từ không có điều khiển sang có điều khiển... Vì hoà bình và độc lập dân tộc, nhân dân và dân tộc Việt Nam phải trang bị cho mình lực lượng phòng không tối cần thiết,phù hợp với điều kiện kinh tế và địa lý ,địa hình của lãnh Thổ. Chúng ta không chỉ ước mơ có cuộc sống hoà bình mà không tự mình xây dựng một hệ thống phòng thủ vững chắc. Trong chiến tranh công nghệ cao chúng ta phải tự mình xây dựng mạng lưới phòng không để làm chủ bầu trời quốc gia. Kẻ thù luôn tìm mọi âm mưu thủ đoạn tìm cách xâm lược và thôn tính nước ta. đất nước Việt Nam không xâm lược và gây tội ác chiến tranh với bất cứ đất nước nào khác, mà chúng ta bảo vệ yên bình cho những cái gì thuộc quyền sở hữu của chúng ta. Vì vậy hệ thống phòng không nhất là tên lửa phòng không phải phù hợp với tính chất phòng thủ. Nhưng Việt Nam là một đất nước còn nghèo, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị quân sự,cũng như nghiên cứu còn lạc hậu. Chúng ta không thể mua sắm thiết bị quân sự tiên tiến của nước ngoài mà chúng ta phải cố gắng khắc phục những gì hiện có. Ngoài ra vấn đề này còn không đảm bảo an toàn cho bí mật quân sự. Một bằng chứng là trong chiến dịch “con cáo sa mạc” Iraq đã bị phá hỏng tất cả hệ thống điều khiển máy tính mua từ nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLQS Vu Khi 44.DOC
Tài liệu liên quan