Tiểu luận Lý thuyết bộ ba bất khả thi và thực tiễn áp dụng

Mục lục

 

1. Lý thuyết bộ ba bất khả thi 1

1.1 Ba nhân tố của lý thuyết và thước đo của lý thuyết bộ ba bất khả thi. 1

1.1.1 Chính sách tiền tệ độc lập 2

1.1.2 Ổn định tỷ giá 2

1.1.3 Hội nhập tài chính (tự do hóa dòng vốn ) 3

1.1.4 Sự kết hợp ba của bộ ba bất khả thi .

1.2 Thước đo bộ ba bất khả thi 4

1.3 Chứng minh bộ ba bất khả thi 6

1.3.1 Dùng mô hình tam giác đều 6

1.3.2 Dùng đồ thị (R, Y) 8

2. Thực tiễn áp dụng bộ ba bất khả thi 11

2.1 Bộ ba bất khả thi ở các nước. 11

2.2 Tác động của bộ ba bất khả thi ở Việt Nam. 14

2.2.1 Sự gia tăng của lạm pháp 14

2.2.2 Căng thẳng về vấn đề lãi suất 15

2.3.3 Thị trường chứng khoán tụt dốc 15

3. Giải pháp để thực hiện hai mục tiêu :Kiềm chế lạm phát , ổn định thị trường chứng khoán. 17

3.1 Mục tiêu lạm phát: Chính sách tiền tệ 17

3.2. Mục tiêu về thị trường chứng khoán : 17

 

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12835 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lý thuyết bộ ba bất khả thi và thực tiễn áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tố của bộ ba ấy. và buộc phải thả nổi yếu tố còn lại. Tại sao lại không thể tiến hành đồng thời cả ba yếu tố trên?? Giả sử một nước cố gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời. Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, vốn nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân hàng trung ương muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, nhằm tăng lượng cung tiền, điều tiết tỉ lệ đồng ngoại tệ và đồng VN. Song điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát không tăng tốc, thì phải thực hiện chính sách thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngoài càng chảy vào nhiều. (Chính sách thanh khoản đối ứng, còn gọi theo cách khác là chính sách vô hiệu hóa, là chính sách thu hồi bớt nội tệ từ lưu thông nhằm vô hiệu hóa hoặc giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của việc thu mua ngoại tệ tới giá trị nội tệ). Chính sách tiền tệ độc lập Chính sách tiền tệ độc lập là những chính sách mà nhà nước thực hiện nhằm mục đích điều tiết kinh tế, nhưng không quan tâm đến những chính sách đến tỉ giá hay tăng giảm, hay các biến số vĩ mô khác. Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát triển nóng, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc thắt chặt cung tiền và ngược lại. Trong các trường hợp này chính phủ không quan tâm đến tỷ giá tăng hay giảm và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Chính vì sự độc lập tiền tệ này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định hơn. Tuy nhiên độc lập tiền tệ quá mức có thể là một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn. Độc lập tiền tệ nhiều hơn vì vậy dễ dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Đó là chưa kể độc lập tiền tệ quá mức có khả năng làm cho chính phủ tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ bằng cách phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách. Hậu quả là nền kinh tế rơi vào mất ổn định với tình trạng lạm phát. Ổn định tỷ giá Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên tỷ giá cố định hay ổn định quá mức có mặt trái của nó. Tỷ giá quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế. Ví dụ lạm phát cao trong nước mà tỷ giá gần như cố định dễ dẫn đến nguy cơ hàng hóa mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hậu quả là xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng lên. Ngoài ra tính quá cứng nhắc của tỷ giá còn ngăn cản không cho những nhà làm chính sách sử dụng công cụ chính sách phù hợp với thực tế diễn biến cả nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu hiệu bong bóng tài sản. Ví dụ vào những tháng đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm phát tăng tốc 2 con số. Lúc bấy giờ tỷ giá dao động mức 1 USD=16.500 VND. Nhiều nhà kinh tế lúc bấy giờ đưa ra đề xuất để cho tỷ giá giảm xuống mức 1 USD = 15.500 VND để nhập khẩu lạm phát thấp ở nước ngoài về.Tỷ giá giảm làm cho giá hàng nhập khẩu giảm đi. Kết quả của việc giảm tỷ giá, tức để cho đồng nội tệ lên giá, kéo theo giá hàng nhập khẩu giảm đi (nếu các yếu tố khác không đổi). Vào thời điểm này do dòng vốn chảy vào nền kinh tế Việt Nam quá nhiều nên tỷ giá có lúc đã giảm xuống khoảng 1 USD = 15.500 VND. Vấn đề là thay vì nhập khẩu các vật tư cần thiết cho sản xuất giúp hạ nhiệt lạm phát thì các doanh nghiệp Việt Nam lại nhập khẩu quá nhiều ô tô. Nhìn chung tỷ giá quá cứng nhắc chẳng những có khả năng dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng, rủi ro lạm phát cao mà còn dẫn đến phân bổ sai nguồn lực và tăng trưởng không bền vững. Hội nhập tài chính (tự do hóa dòng vốn ) Hội nhập tài chính hợp tác giữa các nền kinh tế, hay có thể nói là sự luân chuyển dòng vốn giữa các nền kinh tế. Lợi ích : + Hữu hình : quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn. giúp nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư. + Vô hình : Tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Lợi ích lớn nhất-lợi ích vô hình-mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Trên thực tế chính nhờ vào quá trình tự do hóa tài chính cuối những thập niên 1990, nhất là sau trở thành thành viên WTO 2007 mà chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách sâu rộng, trong đó có cải cách thủ tục hành chính và chất lượng thể chế. Mặt trái: Hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu cơ. Mặc dù vậy hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1990 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng có nguyên nhân từ hội nhập tài chính nhưng thiếu quy tắc điều tiết kèm theo. Tình trạng bong bóng chứng khoán và bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 dẫn đến những bất ổn kinh tế vĩ mô một phần cũng do tự do hóa tài chính nhưng thiếu cơ chế giám sát tương thích. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu cơ. Sự kết hợp bộ ba bất khả thi + Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. + Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nỗi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, chính phủ (NHTW) được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. + Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Thước đo bộ ba bất khả thi Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba, dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một quốc gia với IMF. Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ, đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi. Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ. Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IMF để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn.Tuy nhiên điều mà các nhà kinh tế thực sự quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông thoáng. Chinn và Ito đã phát triển ba thước đo để đánh giá mức độ độc lập tiền tệ (MI), ổn định tỷ giá ( ERS) và hội nhập tài chính ( KAOPEN). Độc lập tiền tệ MI. Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo nghịch của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng: MI = 1 - Trong đó: i: quốc gia sở tại, j: quốc gia cơ sở. Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Gía trị càng tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. VÍ dụ nếu chúng ta muốn đo lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, quốc gia sở tại là Việt Nam và quốc gia cơ sở là Mỹ ( nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VNĐ với lãi suất USD). Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở.Độ ổn định tỷ giá nằm giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định. ERS = Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác định được chính sách tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải dựa trên những gì mà quốc gia đó tuyên bố. Hội nhập tài chính (KAOPEN). Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi,khó nhất là đo lường mức độ hội nhập tài chính. Muốn đánh giá mức độ hội nhập tài chính, chúng ta phải đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy nhiên việc đo lường mức độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó để phản ánh hết những phức tạp trong thực tế. Chẳng hạn có quốc gia tuy tuyên bố mở cửa thị trường vốn bằng những chính sách khá thông thoáng nhưng trong thực tế lại kiểm soát vốn bằng những biện pháp hành chính của các cơ quan chức năng. Chinn và Ito (2006 , 2008) đưa ra đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo lường mức độ hội nhập tài chính. Lưu ý : chỉ số KAOPEN chỉ cho ta thấy độ mở tài khoản vốn theo pháp lý dựa trên các báo cáo của chính phủ cho IMF, WB các chỉ số kinh tế vĩ mô liên quan đến kiểm soát vốn và ngoại hối. 1.3 Chứng minh bộ ba bất khả thi 1.3.1 Dùng mô hình tam giác đều Hình 1 là sự minh hoạ về nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh thể hiện cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của tỷ giá, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa. Ví dụ,mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ổn định đạt được bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn. Mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đỉnh thả nổi hoàn toàn. Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh liên minh tiền tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu. Kiểm soát vốn rgrgrgrgrgrgrgrrtoàntontoàn Chính sách tiền tệ độc lập tỷ giá ổn định Luân chuyển vốn tăng Liên minh tiền tệ Thả nỗi hoàn toàn Hội nhập TC hoàn toàn Hình 1. 3.1 Tam giác bộ ba bất khả thi Bảng 1. Tóm tắc nguyên lý hoạt động của bộ ba bất khả thi Nguyên lý của bộ ba bất khả thi Dòng vốn lưu động hoàn toàn Chính sách tiền tệ độc lập Hệ thống tỷ giá cố định Ví dụ: Kiểm soát vốn Không Có Có Trung Quốc trước cải cải cách tháng 7/2005 Liên minh tiền tệ Có Không Có EU Tỷ giá thả nổi Có Có Không Nhật, Úc Dựa vào bảng tóm tắt ta có thể thấy rằng một quốc gia không thể thực hiện đồng thời ba mục tiêu. Nếu đạt được mục tiêu dòng vốn lưu động hoàn toàn và hệ thống tỉ giá cố định thì nhà nước phải thực hiện kế hoạch kiểm soát vốn, và như vậy thì dòng vốn không thể chảy vào nền kinh tế một cách tự do được, nghĩa là không thực hiện được mục tiêu dòng vốn lưu động tự do. Tương tự, một khi thực hiện được mục tiêu hệ thống tỉ giá cố định và dòng vốn lưu động vào nền kinh tế tự do thì không thể thực hiện được mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập vì phải thực hiện liên minh tiền tệ ( liên minh tiền tệ có thể được hình dung giống như việc các quốc gia lien minh các chính sách tiền tệ giống như khối EU hiện nay). Và còn lại, để có được mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập, và tự do hóa dòng vốn thì phải hi sinh hệ thống tỉ giá cố định. Và khi đó thì phải thực hiện biện pháp để tỉ giá thả nổi. 1.3.2 Dùng đồ thị (R, Y) Trên mỗi hình vẻ với kí hiệu các đường như sau: BP: Tập hợp các tổ hợp giữa sản lượng và lãi suất mà tại đó có sự cân bằng cán cân thanh toán. LM: Đường LM biểu diễn một tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ. L và M là các chữ cái viết tắt của các từ tiếng Anh Liquidity Preference và Money Supply nghĩa là nhu cầu giữ tiền mặt của cá nhân và cung tiền của cơ quan quản lý tiền tệ của nhà nước. Đường LM được dùng trong phân tích IS-LM r : Lãi suất Y : Đường tổng cầu. IS: Đường IS biểu thị tập hợp các mức lãi suất và thu nhập cân bằng thị trường hàng hóa vĩ mô. IS là kết hợp hai chữ cái viết tắt của Investment và Saving trong tiếng Anh, nghĩa là đầu tư và tiết kiệm. Đường IS được sử dụng trong phân tích IS-LM. Thị trường vốn đóng Độc lập tiền tệ Ổn định tỷ giá Tỷ giá thả nỗi Tỷ giá cố định Hội nhập tài chính Hình 1.3.2 Bộ ba bất khả thi Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ Y0 Y1 A B LM LM1 BP IS r r1 Hình 1.3.3 Thị trường vốn đóng Xuất phát từ A thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm dịch chuyển LM đến LM1 . LM1 cắt IS tại B thì có R thấp hơn, có Y1 >Yo làm cho xuất khẩu ròng NX giảm làm mất cân bằng tỷ giá . Nếu nhà nước cho hội nhập tài chính làm cho áp lực càng lớn đối với cố định tỷ giá => hội nhập tài chính sẽ không tồn tại. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính A BP Y r Y0 Y1 B LM LM1 BP IS r r1 Xét tại điểm A nếu nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì đường LM dịch chuyển xuống thành LM1. Đường LM1 cắt IS tại B có r thấp làm dòng vốn dịch chuyển ra nước ngoài và tại đó có mức sản lượng Y1 lớn hơn mức sản lượng Yo làm cho xuất khẩu ròng giảm => cung ngoại tệ giảm cầu ngoại tệ tăng => không thể ổn định tỷ giá . Hình 1.3.4 Tỷ giá thả nỗi Ổn định tỷ giá và hội nhâp tài chính Xét tại điểm A thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ đường LM dịch chuyển LM1 , LM1 cắt IS tại B lúc này tại B có r thấp , xuất khẩu ròng giảm (NX) làm tỷ giá biến đổi . Nhà nước phải bù đắp khoản khoản ngoại tệ này bằng cách bơm ngoại tệ vào thị trường => làm LM1 dịch chuyển LM => chính sách tiền tệ vô tác dụng A BP Y r Y0 Y1 B LM LM1 BP IS r r1 Hình 1.3.5 Tỷ giá cố định Thực tiễn áp dụng bộ ba bất khả thi Bộ ba bất khả thi ở các nước. Nước Mỹ đã chọn hai mục tiêu đó là sử dụng chính sách tiền tệ và lưu chuyển dòng vốn tự do vào nền kinh tế. Mọi người Mỹ đều có thể dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản nhất là gửi tiền cho 1 quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế và người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng khoán, trái phiếu tại Mỹ. Mặt khác, Cục dự trữ liên bang Fed cũng sử dụng chính sách tiền tệ để góp phần tạo việc làm và ổn định giá cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết định này là sự bất ổn đối với giá trị của đồng đôla trên thị trường ngoại hối. Ngược lại, Trung Quốc lại có 1 cách lựa chọn khác. Ngân hàng trung ương nước này thực hiện chính sách tiền tệ và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối với giá trị trao đổi của đồng nhân dân tệ. Nhưng để hoàn thành 2 mục tiêu này, Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc hạn chế công dân Trung Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Nếu không có những hạn chế đó, tiền sẽ chu chuyển ra và vào đất nước, khiến lãi suất trong nước bằng với mức lãi suất do các ngân hàng trung ương nước ngoài thiết lập. Phần lớn các nước châu Âu đã chọn cách thứ 3.Bằng cách sử dụng đồng euro để thay thế cho đồng franc Pháp, mác Đức, lira Italia... những nước này đã loại bỏ những biến động tỷ giá hối đoái trong khu vực của họ.Thêm vào đó, dòng vốn tự do di chuyển trong các quốc gia này.Nhưng cái giá của sự lựa chọn này là việc từ bỏ khả năng sử dụng chính sách tiền tệ. Kinh nghiệm áp dụng: Kinh nghiệm áp dụng bộ ba bất khả thi của Trung Quốc:Trung Quốc là một quốc gia áp dụng khá thành công bộ ba bất khả thi vẫn chưa tự do hóa dòng vốn. Trong những năm gần đây, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, thặng dư thương mại với Mỹ trờ thành vấn đề làm cho Mỹ rất lo ngại, gây sức ép để buộc Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ. Vấn đề đang làm đau đầu người Trung Quốc đã được giải quyết bằng cách chấm dứt hành động can thiệp tỷ giá (sterilization) của ngân hàng trung ương nước này (là việc nhằm vô hiệu hóa ảnh hưởng của sự can thiệp tỷ giá bằng cách tung ra các loại trái phiếu chính phủ để ngăn cung tiền tăng quá nhanh. Người dân Trung Quốc đang trở nên giàu có hơn và đang lập những kỷ mới về gửi tiết kiệm, trong bối cảnh những tài sản tiết kiệm này không dễ dàng gì đầu tư ra nước ngoài được (do tài khoản vốn của Trung Quốc vẫn bị kiểm soát chặt). Bởi vậy, như là một hậu quả tất yếu, lượng vốn nội địa khổng lồ này đã biến thành các khoản đầu tư làm tăng năng lực sản xuất trong nước đến mức quá lớn so với cầu nội địa. Trong khi đó, phần lớn nhất trong khối lượng dự trữ ngoại hối tăng lên là từ FDI chứ không phải từ thặng dư thương mại. Bởi vậy, đồng nhân dân tệ đã bị đặt dưới áp lực tăng giá và quá trình này có tính tự duy trì, đặc biệt kể từ khi cơ chế cố định tỷ giá NDT/USD được chuyển sang cơ chế cho phép tăng giá đồng nhân dân tệ từ từ so với đồng đôla từ năm 2005. Nắm giữ đồng nhân dân tệ đang có chiều hướng lên giá cũng chính là một cách đầu tư sinh lãi hiệu quả của dân chúng.       Nói cách khác, nhìn nhận đồng nhân dân tệ như một hàng hóa, và thặng dư cán cân thanh toán của Trung Quốc chỉ là sự phản ánh cầu lớn hơn cung: “Nếu anh tạo ra tiền trong trạng thái cân bằng thì lượng tiền tạo thêm này sẽ phá vỡ cân bằng đó, và dân chúng sẽ chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến nhập khẩu nhiều hơn, và khả năng là lạm phát sẽ tăng lên. Nhưng nếu anh in thêm tiền để thỏa mãn nhu cầu tăng lên về tiền của dân chúng thì sẽ không có lạm phát nảy sinh từ việc này”, giáo sư Mundell lập luận. Với hành động sterilization, Ngân hàng trung ương đã ngăn không cho cung tiền tăng lên mạnh để thỏa mãn nhu cầu về tiền của dân chúng, làm tiếp diễn tình trạng bất cân bằng này. Trong trạng thái cân bằng, kết quả của sự bão hòa về cầu đối với đồng nhân dân tệ là nhu cầu hàng hóa trong nước cũng như nhập khẩu sẽ tăng lên, làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc với thế giới, nhất là với Mỹ. Tuy nhiên, trái với thông thường, giá cả nhiều loại hàng hóa đã giảm đi ở Trung Quốc vì các doanh nghiệp đã tăng quy mô sản xuất đón đầu lượng cầu hàng hóa mới tăng lên này mà không phải tăng giá bán do đã hạ được giá thành sản xuất nhờ đạt được kinh tế quy mô (economy of scale), nhờ đó vẫn giữ được biên độ lợi nhuận phù hợp. Vì thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ sẽ giảm đi nên áp lực chiến tranh thương mại với Mỹ cũng vì thế mà giảm đi.       Thực tế là mặc dù ngân hàng trung ương của Trung Quốc đã thực hiện sterilization nhưng lượng cung tiền (M2) vẫn tăng 17% so với mức tăng GDP 11%. Dù vậy, lạm phát ở Trung Quốc vẫn ở mức thấp. Hơn nữa, trong những thời điểm suy thoái nhẹ, áp lực giảm phát đã tăng lên ở Trung Quốc. Thêm một khác biệt là tình trạng quá “nóng” của kinh tế Trung Quốc không dẫn đến cầu tăng quá mạnh như với trường hợp của các nền kinh tế khác. Nói chính xác hơn thì nền kinh tế Trung Quốc vẫn phải đối mặt với vấn đề là nhu cầu trong nước ở mức yếu. Bởi vậy, khi cầu nội địa tăng lên thì họ dư sức tăng mạnh sản lượng và tức là tăng cung để làm bão hòa toàn bộ lượng cầu mới tăng lên này.        Tóm lại, cái gọi là “bộ ba bất khả thi” hoàn toàn có thể là “bộ ba khả thi” trong một số trường hợp. Nền kinh tế Trung Quốc là một minh họa rõ nét cho hiện tượng này. Bảng 2.1: Bộ chỉ số các nhân tố trong bộ ba bất khả thi ở Việt Nam Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 ERS 0.860 0.863 0.835 1.000 1.000 1.000 0.466 0.390 MI 0.265 0.414 0.414 0.458 0.458 0.538 0.551 0.551 KA-OPEN 0.161 0.161 0.161 0.161 0.161 0.161 0.404 0.404 Nguồn:J.M Chinn and H. Ito Biểu đồ 2.2 thể hiện các chỉ số bộ ba bất khả thi tại Việt Nam Thông qua bảng 2.1 và biểu đồ 2.2 ta có thể thấy rằng sau khủng hoảng 2008 Việt Nam chúng ta thực hiện chính sách mở cửa hội nhập tài chính ( chỉ số KA-OPEN) chế độ tỷ giá điều hành theo phương thức thả nỗi có quản lý ( chỉ số ERS) và chúng ta cũng đang thực hiện một chính sách độc lập tiền tệ tương đối ( chỉ số MI). Cụ thể như hình 2.2 Việt Nam thực hiện được tự do hóa dòng vốn, thể hiện từ sau khi Việt Nam từ năm 2007, chỉ số KAOPEN tăng, chỉ số MI tương đối ổn định theo hướng thả nổi, ERS có xu hướng giảm từ giữa năm 2007. Tác động của bộ ba bất khả thi ở Việt Nam. Sự gia tăng của lạm pháp Trong bối cảnh thị trường mở còn yếu kém thì số tiền mà NHNN thu về thông qua việc mua bán các chứng khoán gần như là không đáng kể so với khối lượng cung tiền đã tung ra, điều này đã dẫn đến một sự gia tăng trong lạm phát. Thể hiện qua số liệu các năm từ 2006 đến 2010 ( % tăng , giảm so với năm trước) Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ 2006 - 2009 Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Lạm phát % 7,70% 12,63% 19.89 % 8.9% 11,75% Nguồn : NHNNVN Căng thẳng về vấn đề lãi suất Từ sau tết nguyên đán (tháng 02/2008), lãi suất trở thành vấn đề thời sự. Lãi suất trên thịtrường liên ngân hàng liên tục nóng sốt và tăng cao chưa từng có trong lịch sử. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có lúc lên đến 40%/năm và phổ biến ở mức 15%-17%/năm. Lãi suất cho vay tiêu dùng là 24%/năm, cho vay mua nguyên vật liệu cũng lên đến 16,2%/năm. Sự khan hiếm VNĐ khiến cho nhiều ngân hàng tham gia vào cuộc đua huy động lãi suất, buộc NHNN phải đưa ra trần lãi suất 12%. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tác động của dòng vốn ngoại. Thứ nhất, sự gia tăng của dòng vốn ngoại đã làm tăng nhu cầu chuyển đổi từ ngoại tệ sang nội tệ để đầu tư vào TTCK và bất động sản. Thứ hai, việc TTCK trở thành một kênh đầu tư có mức sinh lợi cao trong năm 2006, đã khiến cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán. Khi chỉ thị 03 được ban hành nhằm kiềm chế hoạt động này, các ngân hàng đã lập tức lách luật bằng cách tăng dư nợ tín dụng để đạt được mục tiêu dư nợ cho vay cầm cố chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ. Sự gia tăng của hoạt động tín dụng đã khiến cho các ngân hàng nhanh chóng rơi vào tình trạng khan hiếm VNĐ. Và buộc phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hoặc tăng lãi suất huy động. Thị trường chứng khoán tụt dốc Năm 2009, Đã có thời điểm chỉ số Vn - Index leo một mạch từ hơn 200 điểm lên ngưỡng 600 điểm nhưng ngay sau đó lại bất ngờ tuột dốc trong những tháng cuối năm. Dù những tháng cuối năm, thị trường điều chỉnh giảm do tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ nhưng với một chu kỳ tăng điểm kéo dài trong 8 tháng trước đó thì năm 2009 vẫn được đánh giá là năm tăng trưởng ấn tượng của thị trường chứng khoán Việt Nam. So với các kênh đầu tư khác như vàng, USD, bất động sản hay tiết kiệm thì kênh đầu tư chứng khoán vẫn hết sức hấp dẫn và được coi mang lại lợi nhuận nhất trong năm 2009. Nếu tính từ đáy thấp nhất của Vn - Index trong năm 2009 là 234,66 điểm trong phiên giao dịch ngày 24/2 và đỉnh cao nhất là 633,21 điểm (ngày 23/12) thì chỉ số này đã tăng gần 2,7 lần. Tương tự, HNX - Index tăng 2,8 lần trong năm nếu so với mức đáy 78,06 điểm và mức đỉnh là 218,38 điểm. Năm 2010 Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2010 gặp nhiều khó khăn khi sụp giảm so với năm 2009 .Đóng cửa phiên giao dịch ngày cuối cùng của năm 2010, vào hôm thứ sáu (31.12), VN-Index tăng 3,26 điểm lên 484,66 điểm (+0,68%), giảm 10,14 điểm so với năm 2009, tương đương giảm 2%. HNX-Index tăng 1,6 điểm lên 114,24 điểm (+1,42%); giảm 32% so với mức đóng cửa năm 2009 là 168,17 điểm Giải pháp để thực hiện hai mục tiêu :Kiềm chế lạm phát , ổn định thị trường chứng khoán. 3.1 Mục tiêu lạm phát: Chính sách tiền tệ Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. b) Điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để bảo đảm kiềm chế lạm phát. c) Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. 3.2. Mục tiêu về thị trường chứng khoán : Chính sách kiểm soát đầu tư. Nhà nước có thể áp dụng biện pháp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLý thuyết bộ ba bất khả thi.doc
Tài liệu liên quan