Tiểu luận Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn

Trên cơ sở xác định mô hình TTHS hiện nay của nước ta là mô hình pha trộn, chịu sự ảnh hưởng lớn của mô hình TTHS lục địa, vấn đề tiếp theo là chúng ta hoàn thiện mô hình TTHS này theo hướng nào? Có quan điểm đề xuất là tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng.[3] Theo ý kiến của chúng tôi thì quan điểm này quá dễ dãi và không thuyết phục ở góc độ thực tiễn cũng như lý luận. Trên thế giới đã có tiền lệ chuyển đổi một cách máy móc từ mô hình TTHS này sang mô hình TTHS khác. Đó là trường hợp của Italy chuyển đổi từ mô hình TTHS thẩm vấn sang mô hình TTHS tranh tụng vào năm 1989 (bỏ không sử dụng hồ sơ vụ án, mọi chứng cứ chỉ được xuất trình đầu tiên tại phiên tòa ). Nhưng kết quả không khả quan, có nhiều trục trặc, nên năm 1992 Italy lại quyết định quay trở lại mô hình TTHS truyền thống của mình. Ở khía cạnh khoa học thì quan điểm về mô hình TTHS pha trộn là cơ sở lý luận về khả năng tiếp nhận và giao thoa giữa các mô hình TTHS khác nhau mà không cần phải chuyển đổi làm mất đi đặc thù vốn có của mình. Thực tiễn lịch sử TTHS thế giới cũng cho thấy xu hướng tiếp nhận, giao thoa những yếu tố tích cực giữa mô hình TTHS thẩm vấn và mô hình TTHS tranh tụng. Bản thân các mô hình TTHS này trong thực tế không còn tồn tại ở dạng nguyên mẫu mà đã có nhiều thay đổi, chỉ giữ lại những nội dung cơ bản nhất mà thôi. Thí dụ như mô hình TTHS tranh tụng đã tiếp thu chế định xét xử phúc thẩm của mô hình TTHS thẩm vấn, còn mô hình TTHS thẩm vấn đã tiếp thu và mở rộng hơn tranh tụng giữa các bên trong giai đoạn điều tra. Như vậy giải pháp đúng trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước – những đặc thù mà chúng ta không thể thoát ly được – như sự ảnh hưởng lớn của mô hình TTHS Pháp và Xô Viết, nhà nước pháp quyền XHCN tiếp tục mở rộng những yếu tố tranh tụng ở phiên tòa sơ thẩm cũng như ở giai đoạn điều tra với mức độ có khác nhau. Nói một cách khác là tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa.

 

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2828 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
văn minh khác nhau. Các mô hình TTHS không chuyển tiếp, thâm nhập nhau mà tự thân tồn tại và phát triển. Phương pháp này phân biệt: + Mô hình TTHS Rôman – Đức hay còn gọi là mô hình TTHS lục địa với đặc trưng về luật thành văn điều chỉnh hoạt động TTHS (Một số tác giả phân biệt mô hình TTHS của Đức với mô hình TTHS của Pháp như là hai mô hình TTHS độc lập). + Mô hình TTHS Anh – Mỹ hay TTHS của các quốc gia theo thông luật với đặc thù là coi trọng yếu tố thực tiễn xét xử thể hiện trong các bản án của TA (án lệ). + Mô hình TTHS tập quán pháp với đặc thù hoạt động TTHS chủ yếu dựa vào tư tưởng pháp luật (ý thức pháp luật) với sự ảnh hưởng của tôn giáo thí dụ như các hệ thống TTHS của các quốc gia hồi giáo. Phương pháp này cho thấy mối quan hệ giữa các yếu tố quốc gia đặc thù với cách thức tổ chức TTHS, giữa đặc thù văn hóa – xã hội với đặc thù mô hình TTHS nhưng lại có hạn chế là không thấy được quy luật chung giữa các mô hình TTHS, không thấy được sự kế thừa giữa chúng. Trường phái thứ ba là trường phái mô hình TTHS lịch sử. Trường phái này đưa ra khái niệm về mô hình TTHS lịch sử. Đó là cách thức tổ chức hoạt động TTHS điển hình trong từng giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội loài người và chịu sự chi phối bởi mối quan hệ giữa tự do cá nhân và nhà nước, giữa lợi ích riêng của cá nhân và lợi ích chung của nhà nước, của xã hội. Những người theo trường phái này đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển lịch sử TTHS để chỉ ra quy luật chung và xu hướng vận động của tiến trình lịch sử đó vì họ cho rằng chỉ có một tiến trình phát triển lịch sử của TTHS, một xu thế chung trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Giống như trường phái khoa học TTHS Xô Viết trước đây, những người theo trường phái này lấy tiêu chí thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội làm cơ sở phân loại các mô hình TTHS nhưng không nhấn mạnh yếu tố bản chất giai cấp của chúng. Phương pháp tiếp cận này chú trọng nghiên cứu các quy luật khách quan thay thế các mô hình TTHS. Các mô hình TTHS đều có quy luật chung trong quá trình phát triển của mình. Trường phái này phân biệt ba mô hình TTHS lịch sử: + TTHS buộc tội sơ khai. Mô hình này hình thành ở thời kỳ nhà nước chiếm hữu nô lệ và tồn tại đến thời kỳ đầu của nhà nước phong kiến. Đặc trưng của mô hình này là địa vị tố tụng hết sức đặc biệt của người buộc tội. Thông thường người bị hại đồng thời là người buộc tội. Người buộc tội quyết định sự khởi đầu của vụ án – khởi tố vụ án hay không khởi tố – cũng như tiến trình của vụ án – đình chỉ hay không đình chỉ. Hệ thống chứng cứ được thừa nhận như là căn cứ giải quyết vụ án nhưng chịu sự ảnh hưởng nặng nề của các quan điểm tôn giáo, tập quán thời đó. Chân lý khách quan của vụ án được xác định bằng hình thức thách đấu, thử thách bằng lửa, bằng nước. Các bên tranh chấp phải tuân thủ những thủ tục và phải vượt qua những thách đấu thử thách như vậy trước sự chứng kiến của TA (trọng tài) để chứng minh lẽ phải thuộc về mình. + TTHS thẩm vấn trung cổ. Mô hình TTHS này xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ nhưng phát triển mạnh nhất, phổ biến nhất trong xã hội phong kiến thời kỳ quân chủ – chuyên chế. Đầu tiên mô hình này tồn tại trong các luật lệ của giáo hội với hoạt động của TA dị giáo – TA xét xử những người có quan điểm khác với quan điểm chính thống của giáo hội. Về sau mô hình này được mở rộng ra xã hội dân sự thành mô hình hoạt động của TA nhà nước. Vụ án hình sự có thể được bắt đầu từ những tin đồn, mật báo. Có sự phân biệt hoạt động điều tra sơ bộ và hoạt động này không mang tính công khai đối với bị can. Các giáo chủ là người tiến hành hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để làm rõ tin đồn về sự kiện tội phạm và chuyển vụ án ra Tòa để xét xử. Bị can luôn được suy đoán là có tội và luật lệ cho phép áp dụng tra tấn, nhục hình với bị can như là cách thức thu thập chứng cứ. Ở Đức thời kỳ đó ước tính có từ 60 đến 70 hình thức tra tấn khác nhau. Bị can hầu như bị tước đoạt khả năng bào chữa, không được thừa nhận là chủ thể tham gia hoạt động TTHS mà ngược lại, là đối tượng của hoạt động TTHS. TA có vai trò tích cực trong hoạt động tố tụng, thâu tóm vào tay mình cả ba chức năng cơ bản của TTHS: vừa buộc tội, vừa bào chữa, vừa xét xử. Hệ thống chứng cứ được xây dựng trên cơ sở những quy định chặt chẽ về cách đánh giá chứng cứ theo những chuẩn mực giá trị nhất định (đánh giá chứng cứ hình thức). Thí dụ như lời nhận tội của bị cáo là “chứng cứ vua”, lời khai của phụ nữ có giá trị chứng minh ít hơn so với lời khai của nam giới, lời khai của người giàu trung thực, đáng tin cậy hơn lời khai của người nghèo… Hệ thống chứng cứ này dù sao cũng được nhìn nhận là một sự tiến bộ vì ý chí của pháp luật cũng đã thay thế cho sự tùy tiện của thẩm phán. Mô hình TTHS này tuyệt đối hóa lợi ích nhà nước, đặt lợi ích nhà nước lên trên hết và xem thân phận của bị can như là phương tiện để đạt tới mục đích có ý nghĩa xã hội là chân lý của vụ án. Nhưng lịch sử đã cho thấy chính sự chà đạp lên quyền con người của bị can lại là yếu tố cản trở việc thực hiện mục đích đó và là nguyên nhân phổ biến của những sai lầm tư pháp. + Mô hình TTHS tranh tụng. Mô hình này phổ biến ở những quốc gia có truyền thống thông luật. Nó ra đời đầu tiên ở Anh, sau đó được phổ biến ở các nước vốn là thuộc địa của Anh. Mô hình này thừa nhận hoạt động TTHS là quá trình giải quyết tranh chấp pháp lý giữa một bên là đại diện nhà nước và một bên là công dân bị cáo buộc là đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trước một TA – trọng tài vô tư. Đoàn bồi thẩm – đại diện cho dân chúng cũng tham gia vào việc xét xử. Trong cuộc đấu pháp lý này, hai bên tranh chấp đều có những khả năng pháp lý như nhau để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Tranh tụng giữa hai bên bắt đầu ngay từ giai đoạn trước xét xử. TA đánh giá chứng cứ theo nguyên tắc tự do, theo niềm tin nội tâm của mình. So sánh hai mô hình TTHS này – theo tài liệu của Law Society of Upper Canada[1] – thì hai mô hình này đều có những bước tố tụng giống nhau (điều tra, truy tố chuyển sang tòa án để xét xử và mở phiên tòa xét xử), đều hướng đến việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án nhưng cách thức tìm sự thật khách quan đó lại rất khác nhau. Khác nhau về cách thức tiến hành từng bước, về vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng, về sự kết nối giữa các bước với nhau. Thí dụ như mô hình TTHS thẩm vấn coi trọng bước điều tra. Viện công tố tham gia tích cực trong bước này, là người chỉ đạo và giám sát hoạt động điều tra của cảnh sát. Kết quả điều tra được lưu giữ và phản ánh trong hồ sơ vụ án. Viện công tố là người quyết định truy tố ra trước tòa để xét xử. Trong khi đó trong mô hình TTHS tranh tụng thì vai trò của Viện công tố rất mờ nhạt vì không có trách nhiệm trong hoạt động điều tra. Toàn bộ hoạt động điều tra do cảnh sát tiến hành. Kết quả điều tra được tổng hợp bằng nhiều phương thức khác nhau và không có hồ sơ chính thức của vụ án và không được chuyển trước cho thẩm phán trước khi mở phiên tòa xét xử. Làm như vậy là không hợp lệ. Một điểm khác biệt nữa là TA trong mô hình TTHS thẩm vấn có vai trò tích cực, trực tiếp thẩm vấn và đóng vai trò chính trong thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Còn TA trong mô hình TTHS tranh tụng có vai trò thụ động, rất ít khi hoặc không tham gia thẩm vấn mà chỉ là người điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh luận của các bên. Do TA không biết trước hồ sơ vụ án nên sự tranh tụng giữa hai bên là nội dung chủ yếu của phiên tòa và nhiệm vụ của các bên trong quá trình tranh tụng là thuyết phục TA chấp nhận yêu cầu của mình. Trên thế giới có 48% quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng mô hình thẩm vấn trong khi mô hình tranh tụng chỉ chiếm 19%[2]. Ba mô hình TTHS này thay thế lẫn nhau như tất yếu lịch sử. Vậy thì yếu tố nào quyết định sự thay thế các mô hình TTHS này? Sự phát triển của pháp luật nói chung và của TTHS nói riêng phụ thuộc vào mối quan hệ giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích nhà nước. Mối quan hệ này thể hiện mâu thuẫn cơ bản giữa cá nhân và tập thể trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mức độ tự do của con người là một tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển của pháp luật nói chung và của pháp luật TTHS nói riêng. Tự do cá nhân được phản ánh trong địa vị tố tụng của các chủ thể tham gia TTHS. Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động TTHS. Đây là căn cứ phân loại của trường phái mô hình TTHS lịch sử. Nền tảng tiến hóa các mô hình TTHS trong lịch sử chính là sự phát triển của tự do cá nhân. Mức độ quan hệ giữa tự do cá nhân và lợi ích của nhà nước khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử và tương ứng với từng thời kỳ lịch sử đó là các mô hình TTHS khác nhau. Toàn bộ lịch sử phát triển của TTHS phân chia thành ba giai đoạn cơ bản: + Giai đoạn mà lợi ích nhà nước nhượng bộ trước lợi ích cá nhân. Tương ứng là mô hình TTHS tư – tranh tụng (TTHS buộc tội sơ khai). + Giai đoạn mà lợi ích nhà nước bao trùm toàn bộ lợi ích cá nhân, bao trùm cá nhân. TTHS là hoạt động không có lợi ích cá nhân. Tương ứng là mô hình TTHS thẩm vấn trung cổ (inquisitio). + Giai đoạn bảo đảm quyền và sự tham gia của cá nhân trong TTHS với sự thừa nhận lợi ích nhà nước là yếu tố tiên quyết trong TTHS. Tương ứng là mô hình TTHS công – tranh tụng. Như vậy mô hình TTHS lịch sử được xác định bởi quan hệ giữa tự do cá nhân và nhà nước, giữa lợi ích tư và lợi ích công. Nếu tổ chức hoạt động TTHS nghiêng về lợi ích tư thì đó là mô hình TTHS tư – tranh tụng. Nếu nghiêng về lợi ích công: mô hình TTHS thẩm vấn. Nếu có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích tư và lợi ích công: mô hình TTHS công – tranh tụng. Ưu điểm của phương pháp tiếp cận này thể hiện ở chỗ: bất kỳ mô hình TTHS lịch sử nào cũng có thể được xem xét như là sự thể hiện quy luật thay thế các mô hình TTHS và trên cơ sở đó có thể xác định mô hình TTHS tiếp theo cần phải có là mô hình nào và cần phải sửa BLTTHS như thế nào để hoàn thiện hoạt động TTHS. Phương pháp tiếp cận này phù hợp với xu hướng chung hiện nay là thừa nhận quan hệ giữa cá nhân và nhà nước là cốt lõi của mọi hoạt động trong đó có hoạt động TTHS. Nó cho phép thấy được sự khác biệt giữa tranh tụng trong TTHS với tranh tụng trong TTDS. Tuy vậy các mô hình TTHS lịch sử này vẫn còn quá trừu tượng và dù trường phái này không muốn nhấn mạnh về bản chất giai cấp khi phân loại mô hình TTHS nhưng chính tiêu chí phân loại – mối quan hệ giữa lợi ích tư và lợi ích nhà nước – đã cho thấy sự phụ thuộc của mô hình TTHS với bản chất nhà nước ở chừng mực nhất định. Nghiên cứu mô hình TTHS có ý nghĩa to lớn về nhận thức. Kết quả của nó cho chúng ta tri thức có tính hệ thống về các mô hình TTHS, về sự đa dạng của nó và về các quy luật chi phối sự đa dạng đó. Nó cũng cho chúng ta thấy rõ vai trò của TTHS trong đời sống xã hội, mối quan hệ của TTHS với nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu về mô hình TTHS còn có ý nghĩa về phương pháp luận. Kết quả nghiên cứu của nó là cơ sở khoa học cho việc xác định hướng giải quyết những nội dung cụ thể của TTHS, hướng hoàn thiện BLTTHS trong mỗi nhà nước ở từng giai đoạn phát triển của mình và chính điều này là nhân tố bảo đảm hiệu quả của chúng trong thực tiễn. Nghiên cứu vấn đề mô hình TTHS cho chúng ta một số kết luận đáng chú ý sau đây: - Mỗi trường phái mô hình hóa TTHS đều có những hạt nhân hợp lý của nó và đều có những hạn chế không tránh khỏi. Vấn đề là chúng ta phải biết gắn nhiệm vụ cụ thể của chúng ta với hạt nhân hợp lý của từng phương pháp tiếp cận để có thể có giải pháp thuyết phục và tối ưu. Thí dụ như chúng ta muốn hoàn thiện TTHS của mình thì trước khi giải bài toán hoàn thiện TTHS Việt Nam như thế nào chúng ta phải trả lời TTHS Việt Nam có những dấu hiệu đặc trưng của mô hình TTHS nào? Mô hình TTHS thẩm vấn? Mô hình TTHS tranh tụng hay mô hình TTHS pha trộn? Quá trình hình thành và tồn tại của TTHS Việt Nam chịu sự ảnh hưởng và tác động của những yếu tố bên ngoài đặc trưng nào? Những yếu tố bên trong nào cũng có tác động chi phối hoạt động TTHS mà chúng ta không thể bỏ qua được, chẳng hạn như yếu tố bản chất nhà nước CHXHCN Việt Nam có thể có ảnh hưởng đến cách thức tổ chức và hoạt động của TTHS nước ta hay không? Bằng cách tiếp cận của trường phái mô hình TTHS lý thuyết tôi cho rằng mô hình TTHS của chúng ta hiện nay là mô hình TTHS pha trộn vì nó vừa có những đặc điểm của mô hình TTHS thẩm vấn, vừa có đặc điểm của mô hình TTHS tranh tụng. Cụ thể là sự hạn chế tranh tụng trong giai đoạn điều tra do có cách biệt về sự bình đẳng trong địa vị tố tụng của các bên, do hạn chế tính công khai của kết quả điều tra, kết quả điều tra được phản ánh trong hồ sơ chính thức và là cơ sở cho hoạt động xét xử của TA. TA nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên toà xét xử và có vai trò tích cực trong quá trình xét hỏi (dấu hiệu của mô hình TTHS thẩm vấn). Bên cạnh đó không thể phủ nhận là quá trình tranh tụng đã bắt đầu từ giai đoạn điều tra mặc dù lúc này tranh tụng vẫn là tranh tụng giữa các bên chưa thật sự bình đẳng về địa vị tố tụng. Nhưng đến phiên tòa sơ thẩm thì tranh tụng đã là tranh tụng công khai giữa các bên hoàn toàn bình đẳng về địa vị tố tụng trong hoạt động chứng minh trước TA. Bên buộc tội có quyền gì thì bên bào chữa cũng có quyền tương tự. Các chức năng cơ bản trong TTHS do các chủ thể khác nhau thực hiện, sự tách bạch về chức năng này tương đối rõ ràng mặc dù chưa thật triệt để (dấu hiệu của mô hình TTHS tranh tụng). Lịch sử hình thành và phát triển TTHS ở nước ta cũng cho thấy quá trình này chịu sự ảnh hưởng to lớn của mô hình TTHS của Pháp và Xô viết mà hai mô hình này là hai mô hình TTHS lục địa đã tiếp thu nhân tố tích cực của mô hình tranh tụng nên được thừa nhận là mô hình pha trộn. - Mỗi mô hình TTHS đều có những thế mạnh và đồng thời đều có những hạn chế của nó. Không có mô hình TTHS nào là tuyệt đối hoàn hảo. Thí dụ như mô hình tranh tụng có mặt mạnh là hoạt động tố tụng có tính tranh tụng tích cực của các bên đã tạo điều kiện cần thiết, khách quan cho hoạt động xét xử của TA, hạn chế oan sai nhưng cũng có hạn chế là thủ tục, trình tự tố tụng thường kéo dài về thời gian, phức tạp và tốn kém. Đoàn bồi thẩm với 12 thành viên tham gia xét xử làm cho nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng của bên buộc tội khó khăn hơn nhiều so với xét xử không có đoàn bồi thẩm, chỉ có 2 hội thẩm tham gia trong Hội đồng xét xử. Điều này có lợi cho bị cáo, cho công lý. Nhưng ở khía cạnh tài chính thì đương nhiên là chi phí cho 12 thành viên đoàn bồi thẩm tốn kém nhiều hơn so với chi phí cho hai hội thẩm nhân dân. 3. Thực trạng và hướng hoàn thiện mô hình TTHS ở nước ta Trên cơ sở xác định mô hình TTHS hiện nay của nước ta là mô hình pha trộn, chịu sự ảnh hưởng lớn của mô hình TTHS lục địa, vấn đề tiếp theo là chúng ta hoàn thiện mô hình TTHS này theo hướng nào? Có quan điểm đề xuất là tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng.[3] Theo ý kiến của chúng tôi thì quan điểm này quá dễ dãi và không thuyết phục ở góc độ thực tiễn cũng như lý luận. Trên thế giới đã có tiền lệ chuyển đổi một cách máy móc từ mô hình TTHS này sang mô hình TTHS khác. Đó là trường hợp của Italy chuyển đổi từ mô hình TTHS thẩm vấn sang mô hình TTHS tranh tụng vào năm 1989 (bỏ không sử dụng hồ sơ vụ án, mọi chứng cứ chỉ được xuất trình đầu tiên tại phiên tòa…). Nhưng kết quả không khả quan, có nhiều trục trặc, nên năm 1992 Italy lại quyết định quay trở lại mô hình TTHS truyền thống của mình. Ở khía cạnh khoa học thì quan điểm về mô hình TTHS pha trộn là cơ sở lý luận về khả năng tiếp nhận và giao thoa giữa các mô hình TTHS khác nhau mà không cần phải chuyển đổi làm mất đi đặc thù vốn có của mình. Thực tiễn lịch sử TTHS thế giới cũng cho thấy xu hướng tiếp nhận, giao thoa những yếu tố tích cực giữa mô hình TTHS thẩm vấn và mô hình TTHS tranh tụng. Bản thân các mô hình TTHS này trong thực tế không còn tồn tại ở dạng nguyên mẫu mà đã có nhiều thay đổi, chỉ giữ lại những nội dung cơ bản nhất mà thôi. Thí dụ như mô hình TTHS tranh tụng đã tiếp thu chế định xét xử phúc thẩm của mô hình TTHS thẩm vấn, còn mô hình TTHS thẩm vấn đã tiếp thu và mở rộng hơn tranh tụng giữa các bên trong giai đoạn điều tra. Như vậy giải pháp đúng trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam là phải xuất phát từ đặc thù lịch sử, đặc thù về chế độ nhà nước – những đặc thù mà chúng ta không thể thoát ly được – như sự ảnh hưởng lớn của mô hình TTHS Pháp và Xô Viết, nhà nước pháp quyền XHCN… tiếp tục mở rộng những yếu tố tranh tụng ở phiên tòa sơ thẩm cũng như ở giai đoạn điều tra với mức độ có khác nhau. Nói một cách khác là tiếp tục hoàn thiện mô hình pha trộn theo hướng thiên về tranh tụng hơn nữa. Cần mở rộng tối đa tính tranh tụng của phiên tòa sơ thẩm và điều này được xem là khâu đột phá. Phiên tòa sơ thẩm tranh tụng không chỉ thay đổi hoạt động của những người tham gia phiên tòa, tạo tiền đề khách quan nhất, cần thiết nhất cho bản án công minh mà còn tác động lan tỏa tích cực đến các chủ thể tố tụng khác, đến các giai đoạn tố tụng khác. Người hưởng lợi ở đây là ai? Người hưởng lợi đầu tiên ở đây là bị cáo. Tiếp theo là uy tín của các cơ quan tố tụng, của nền tư pháp nước nhà. Phiên tòa sơ thẩm tranh tụng chính là con đường duy nhất để lấy lại niềm tin của người dân về công lý, về cơ quan TA. Đó cũng chính là một trong những mục tiêu của cải cách tư pháp đang được tiến hành ở nước ta hiện nay. Tuy cải cách tư pháp đã triển khai được nhiều năm nhưng dường như chưa tạo được những thay đổi cần thiết trong hoạt động TTHS. Báo Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh cách đây không lâu đăng tải nhiều bài viết về những chuyện lạ xoay quanh việc xét xử các vụ án hình sự[4]. Không là chuyện lạ sao được khi mà Hội đồng xét xử thay vì phải là trọng tài vô tư khách quan tại phiên tòa thì lại là người “dồn ép” bị cáo theo hướng kết tội như một công tố viên thứ hai. Tòa xét hỏi bị cáo mà không khác gì đang buộc tội bị cáo. Tòa “quay” bị cáo cho ra đầu ra đũa. Còn vị công tố đích thực – người đại diện cho nhà nước buộc tội bị cáo trước tòa – lại thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình vì đã có Tòa “giúp”, không tranh tụng, lấy “im lặng là vàng”. Trong khi luật sư “hăng như gà chọi” thì Viện lại lạnh tanh… Một phiên tòa như vậy có đáp ứng được yêu cầu về tranh tụng mà Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 đã đặt ra hay không? Tại phiên họp sáng 27/3/2007 của Quốc hội khóa XI thảo luận về các Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSNDTC và Chánh án TANDTC, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết cũng đã đặt câu hỏi “Xét xử ở TA ở ta đã thực sự là tranh tụng chưa? Có bao nhiêu phần trăm các vụ án đã diễn ra theo đúng tinh thần tranh tụng hay vẫn là nửa tranh tụng, nửa “bỏ túi”? Một nửa tranh tụng vẫn là chưa tranh tụng. Điều này giống như người ta thường nói “một nửa cái bánh mỳ vẫn là cái bánh mỳ nhưng một nửa chân lý thì chưa phải là chân lý”. Từ thời cổ đại các nhà triết học đã nói chân lý nảy sinh trong tranh luận và tranh luận lại là hình thức chủ đạo của tranh tụng. Chân lý là khách quan – tức là những gì mà chúng ta nhận thức được phù hợp với thực tại khách quan. Bản án – quyết định phán xử của TA – về nguyên tắc phải là chân lý. Chính vì lẽ đó mà chúng ta mới cần đến TA. Nếu không có nhu cầu và khát vọng về chân lý – sự thật khách quan trong các tranh chấp pháp lý như ai đúng ai sai, có tội hay không có tội – thì đã không có sự ra đời của một cơ quan có chức năng đặc thù là cơ quan TA trong bộ máy nhà nước. Nói đến TA là nói đến chức năng xét xử. Tranh tụng là một yêu cầu khách quan, cần thiết để TA thực hiện chức năng xét xử của mình một cách tốt nhất. Điều này có nghĩa khi chưa có tranh tụng tại các phiên tòa thì chưa thể nói đến chân lý, chưa thể nói đến các bản án công minh, đúng người, đúng tội, tâm phục, khẩu phục được. Cuối cùng thì ai sẽ phải trả giá cho những phiên tòa như vậy? Người phải trả giá đầu tiên đó là bị cáo. Những trả giá tiếp theo là uy tín của TA, là niềm tin của người dân về công lý trong xã hội… Vấn đề đặt ra là vì sao lại có thực trạng đó và giải pháp khắc phục nó như thế nào? Có ý kiến cho rằng nguyên nhân của thực trạng trên là “thói quen do lịch sử để lại” và giải pháp khắc phục là phải bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho thẩm phán và kiểm sát viên. Có ý kiến khác cho rằng nguyên nhân chính là do luật. Luật chưa quy định rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ của TA, của Viện kiểm sát (VKS) khiến cho vai trò của hai bên còn nhập nhằng, trộn lẫn vào nhau. Trách nhiệm tìm sự thật của vụ án đã đặt lên vai TA và khi VKS chỉ buộc tội mà không thèm chứng minh thì TA phải thay VKS. TA cũng phải hỏi, phải xử nếu không thì vụ án sẽ bế tắc. Luật quy định chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có cả TA. Vì quy định đó mà TA đã cùng với VKS buộc tội bị cáo. Giải pháp khắc phục ở đây là phải sửa luật.[5] Chúng tôi đồng tình với nhóm ý kiến thứ hai. Nguyên nhân đích thực của thực trạng trên là do BLTTHS nước ta chưa có đầy đủ những quy định đáp ứng yêu cầu tranh tụng. Hoạt động xét xử của TA, VKS và của những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm được điều chỉnh chặt chẽ bởi các quy định của BLTTHS. Do vậy khi mà bản thân BLTTHS thiếu vắng những quy định về tranh tụng hoặc quy định không rõ ràng, mập mờ thì làm sao có thể đòi hỏi phiên tòa có tính tranh tụng. Sự yếu kém nghiệp vụ của thẩm phán, kiểm sát viên khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Chừng nào mà chúng ta chưa sửa BLTTHS hiện hành về vấn đề tranh tụng thì chừng đó thực trạng vẫn không thể khả quan hơn dù chúng ta có các thẩm phán, kiểm sát viên giỏi nghiệp vụ đến mấy đi nữa. Theo đánh giá của Ban soạn thảo thì BLTTHS 2003 được sửa đổi cơ bản và toàn diện. Không thể phủ nhận một thực tế là gần 2/3 các điều luật được sửa đổi và bổ sung 36 điều mới trong BLTTHS 2003. Chúng ta có cơ sở để tin rằng khi BLTTHS 2003 có hiệu lực thì sẽ tạo ra những thay đổi có tính đột phá hay những chuyển biến đáng kể trong hoạt động TTHS. Nhưng sau hơn 3 năm, kể từ ngày Bộ luật có hiệu lực đến nay, điều đó chưa xảy ra. Tình hình thậm chí còn có chiều hướng xấu hơn. Đoàn luật sư Hà nội phải có công văn gửi ban Nội chính TW phản ánh những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng nhất là ở giai đoạn điều tra. Mới đây Bộ Công an cũng phải có chỉ thị yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra các tỉnh phải tạo điều kiện cho luật sư làm việc. Còn tình hình tại các phiên tòa thì như báo chí đã phản ánh. Thực tế này buộc chúng ta phải nhìn lại sự đánh giá về BLTTHS 2003. Theo chúng tôi, BLTTHS 2003 được sửa đổi toàn diện nhưng không cơ bản. Chính vì không sửa cơ bản nên không có những thay đổi có tính đột phá hay ít nhất là những thay đổi lớn như chúng ta mong đợi trong hoạt động TTHS. Vậy phải sửa đổi như thế nào để có tính đột phá? Tại diễn đàn Quốc hội phiên họp sáng ngày 27/3/2007 vừa qua đại biểu Hoàng Văn Minh đã chỉ rõ một trong những bước đột phá quan trọng trong hoạt động xét xử là tranh tụng. Tranh tụng để bảo đảm cho việc xét xử tốt hơn, làm cho nền tư pháp thực sự dân chủ, công khai và minh bạch[6]. Đúng như vậy, nhưng điều đáng tiếc là ý kiến của những đại biểu như đại biểu Minh lại là thiểu số trong Quốc hội khóa XI vì chính Quốc hội khóa XI đã thông qua BLTTHS 2003. Trong quá trình thảo luận, góp ý cho Dự thảo BLTTHS 2003 đã có nhiều ý kiến ở nhiều diễn đàn, nhiều bài viết của những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về sự cần thiết phải ghi nhận nguyên tắc tranh tụng như là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 và phải hoàn thiện các nội dung của nguyên tắc này[7]. Nhưng những ý kiến đó đã không được tiếp thu và kết quả như chúng ta đã thấy: trong số những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS 2003 không có nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc cơ bản của BLTTHS chính là những quy luật khách quan có vai trò chủ đạo trong hoạt động tố tụng mà chúng ta phải tôn trọng và tuân thủ. Hoạt động tố tụng tự thân nó đã mang tính tranh tụng. Từ cổ xưa cho đến hiện nay và mãi về sau, hoạt động tố tụng luôn là hoạt động có tính tranh tụng. Vì sao vậy? Hoạt động tố tụng trong bất kỳ lĩnh vực nào (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng trọng tài…) xuất hiện khi có xung đột lợi ích giữa hai chủ thể trong quan hệ pháp lý nhất định mà bản thân họ không thể tự giải quyết được phải cần đến người thứ ba là trọng tài. Cuộc đấu tranh pháp lý giữa hai bên chủ thể có cơ hội ngang nhau trong việc bảo vệ lợi ích của mình (quyền và nghĩa vụ như nhau) trước trọng tài vô tư không thiên vị chính là yếu tố làm cho hoạt động tố tụng có tính tranh tụng. Lẽ tự nhiên là vậy. Chỉ có tranh tụng mới có cơ hội đạt đến chân lý. Trách nhiệm của nhà làm luật là phải nhận thức được quy luật khách quan đó, thừa nhận quy luật khách quan và thiết kế các hoạt động tố tụng phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan. Khi chúng ta chưa thừa nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng thì làm sao chúng ta có thể đòi hỏi các quy định cụ thể của hoạt động tố tụng phải thể hiện tính tranh tụng? Có thể nói một cách thẳng thắn rằng BLTTHS 2003 không thể chế hóa được yêu cầu tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị. Hãy thử phân tích và so sánh các quy định về phiên tòa sơ thẩm trong BLTTHS 1988 và trong BLTTHS 2003 ta sẽ thấy, hầu như không có thay đổi gì đáng kể nếu không muốn nói là

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMô hình tố tụng hình sự việt nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn.doc
Tài liệu liên quan