Tiểu luận Mối quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường

Giá cả mặt hàng lương thực (gạo) trong thời gian gần đây tăng cao. Tại Việt Nam giá chào bán gạo tháng qua tăng 25-32 USD/tấn. Theo tờ tạp chí thương mại tháng 4-2004 cho biết: "trung tuần tháng 4 so với cuối tháng 3 giá thóc gạo tại ĐBSCL vẫn tiếp tục tăng, gạo nguyên liệu dành cho xuất khẩu ở mức 2.850-2.930 đ/kg. Giá gạo thành phẩm 5%,10%,15%,25% ở mức tương ứng 3.530, 3.430, 3.340, 3.160 đ/kg tăng từ 110-190 đ/kg. Tuần nàygiá chào bán gạo 5% tấm tăng lên 215 USD/tấn, FBO cảng Sài gòn, từ mức 207-208 USD/tấn tuần trước. Gạo 25% tấm tăng lên 200 USD/tấn từ mức 198USD/tấn tuần trước". Trong tháng 10 giá gạo vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao. Gạo tẻ loại thường tại Hà Nội: 4.400 đ/kg; tại Đà Nẵng: 3.700đ/kg; tại TP Hồ Chí Minh: 3.800 đ/kg; tại Cần Thơ: 3.500 đ/kg.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở đầu Trong thời đại thông tin và khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng như hiện nay thì tầm hiểu biết của con người không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi trái đất của chúng ta nữa mà đã vượt ra ngoài vũ trụ cùng những khám phá mới. Với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật vượt bậc ấy đã góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển văn minh hiện đại hơn. Đồng thời đời sống của con người cũng không ngừng được cải thiện và nâng cao hơn. Vì lẽ đó mà nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của mỗi con người cũng thay đổi từng ngày. Đặc biệt con người ngày càng có nhu cầu về đời sống vật chất hàng hoá hơn. Do đó để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người thì các dịch vụ cung cấp, mua bán hàng hoá cũng phát triển không ngừng. Thị trường kinh tế ngày càng phát triển mở rộng và đa dạng hơn. Không chỉ có vậy, do thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao nên sản phẩm làm ra muốn tiêu thụ được trên thị trường thì điều cốt yếu là sản phẩm làm ra phải đảm bảo cả về mẫu mã và chất lượng. Các doanh nghiệp muốn phát triển thì phải tạo được uy tín cho thương hiệu của mình, phải nắm bắt được lượng cầu của thị trường để đưa ra lượng cung phù hợp. Cũng như ta hiểu được thị hiếu của người tiêu dùng và khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Đây là vấn đề rất quan trọng của các doanh nghiệp vì không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại nếu như cầu đối với sản phẩm của nó là quá nhỏ hoặc không đủ. Nếu không có người mua thì sẽ không có người mua thì sẽ không có sự ra đời của hàng hoá. và ngược lại nếu hàng hoá không có mặt trên thị trường thì những đòi hỏi của người mua không thể thoả mãn. Nói cách khác, nếu không có tiêu dùng thì không có sản xuất và không có sản xuất thì không có tiêu dùng. Vâng đó chính là nguyên nhân, là lý do tạo ra mối quan hệ cung- cầu hàng hoá. Quan hệ cung cầu đó khá phức tạp và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa. Nó là quan hệ qua lại giữa sản xuất- tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triên và điều tiết tiêu dùng. Cung cầu là hai phạm trù kinh tế, qua chúng mà người ta có thể đánh gia sự tăng giảm kinh tế; thị hiếu, nhu cầu của khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp về số lượng, chất lượng, mẫu mã, giã cả để từ đó lập kế hoạch và phương án sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Đây là vấn đề cấp thiết và mang tính toàn cầu. Để hiểu thêm về mối quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường chúng ta sẽ đi sâu hơn trong phần nội dung chính sau đây. nội dung I) cơ sở lý luận chung: 1. khái niệm và nội dung cơ bản: a) Cung : là toàn bộ khối lượng hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau mà các chủ thể kinh doanh dem ra bán trên thị trường trong một thời gian và không gian nhất định với số lượng, mẫu mã, quy cách, phẩm chất và mức giá được thị trường chấp nhận. Cung đại diện cho sản xuất, lượng hàng bán ra và người bán. Cung chịu ảnh hưởng trực tiếp của giá cả, giá cả tăng làm cho lượng cung tăng và ngược lại giá cả giảm làm lượng cung giảm. Giá cả và cung có mối quan hệ đồng biến, đó là "luật cung". Cung có nguồn thu từ dự trữ quốc gia và dự trữ các doanh nghiệp; sản xuất trong nước; nhập khẩu; và các nguồn khác như : Viện trợ của các nước,quà biếu của kiều bào, hàng nhập lậu bị tịch thu ... b) Cầu: là nhu cầu có khả năng thanh toán, là quỹ tiền tệ của xã hội dùng để mua hàng và trả công dịch vụ trong một thời gian và không gian nhất định. Cũng có thể hiểu, cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ nhất định tương ứng với giá cả, thu nhập và biến số kinh tế xác định. Cầu đại diện cho người tiêu dùng, người mua và đại diện cho tiền. Giá cả của bản thân hàng hoá là biến số quan trọng nhất của hàm cầu. Khi giá cả tăng thì cầu giảm và ngược lại khi giá cả giảm thì cầu tăng. Đó là cơ sở hình thành "luật cầu". Cầu có nguồn thu từ thu nhập tiền tệ của dân cư, mua sắm, chỉ tiêu của các cơ quan hành chính, sự nghiệp, chi tiêu cho an ninh, quốc phòng. Cả cung cầu đều có hệ số co dãn. Để đánh giá này người ta dựa vào sự biến đổi của những nhân tố khác nhau. Đối với cầu : dựa vào giá của chính nó hay thu nhập dân cư. Trong đó thu nhập dân cư là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu tiêu dùng. Cầu của nhiều loại hàng tăng khi thu nhập của người dân tăng, nhưng cũng có nhiều loại hàng nhu cầu giảm khi thu nhập tăng. Đối với cung dựa vào sự tăng dân số, sự tác động giá của một số mặt hàng khác. Từ những nhận định trên ta thấy rằng cung-cầu luôn có sự một sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên mối quan hệ cung cầu. Mối quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại của nền kinh tế thị trưởng, trở thành quy luật của nền kinh tế thị trường. Quan hệ ấy là quan hệ giữa những người sản xuất và người tiêu dùng, người bán với người mua, giữa hàng hoá và tiền tệ. 2. Quan hệ cung-cầu và quy luật vận động của thị trường : Ta có thể thấy cung-cầu luôn có một sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên mối quan hệ cung cầu. Mối quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại của nền kinh tế thị trường, trở thành quy luật của nền kinh tế thị trường. Quan hệ ấy là quan hệ giữa những người sản xuất và người tiêu dùng, người bán với người mua; giữa hàng hoá và tiền tệ. Giữa cung và cầu về hàng hoá, phải có sự thích ứng cần thiết khách quan về hình thái hiện vật và hình thái giá trị. Đó là nội dung cơ bản của quy luật cung cầu về hàng hoá. Trên thị trường, cung-cầu về hàng hoá luôn luôn biến đổi. Là do xã hội luôn luôn biến đổi, nhu cầu của con người cũng về thế mà không ngừng thay đổi dẫn đến lượng cung cầu luôn luôn thay đổi. Tác động qua lại giữa cung và cầu đều thông qua "Bàn tay vô hình" là giá cả. Từ đó hình thành khả năng tự điều chỉnh của thị trường. Một doanh nghiệp nếu muốn tồn tại, phát triển luôn luôn phải chú ý tới cung-cầu hàng hoá. Mà cung cầu tác động đến sản xuất và tiêu dùng do đó để nắm bắt được nhu cầu sản xuất, tiêu dùng ta phải đi sâu vào tìm hiểu tốc độ của cung cầu. Quan hệ cung cầu dưới sự dẫn dắt của giá cả tạo thành cơ chế tương tác cung - cầu, sự vận động có tính quy luật của thị trường. Theo học thuyết của Các Mác, đó là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị theo giáo trình thương mại (Khoa thương mại-Trường Đại học quản lý kinh doanh) xã hội luôn luôn biến đổi, nhu cầu con người cũng không ngừng thay đổi dẫn đến lượng cung cầu luôn luôn thay đổi. Cơ chế tương tác cung- cầu qua giá có thể được biểu thị bằng sơ đồ sau : Nếu cung > cầu thì giá cả hàng hoá sẽ giảm => giá cả < giá trị hàng hoá. Cung giảm, cầu tăng vì thế doanh thu doanh nghiệp sẽ bị giảm. Nếu cung giá cả > hơngiá trị hàng hoá. Cầu giảm, cung tăng vì thế giá cả hàng hoá tăng lên, sức mua của người tiêu dùng sẽ bị giảm đi, nó ảnh hưởng phần nào đó tới thu nhập của doanh nghiệp. Nếu cung = cầu thì giá cả = giá trị. Giá cả ổn định, doanh nghiệp không phát huy được khối lượng sản phẩm của mình, đồng thời một số đòi hỏi của khách hàng không được đáp ứng. Cân đối cung - cầu là giao điểm của đường cung và đường cầu, là điểm cân bằng cung - cầu. Trên thực tế cân đối cung cầu là tương đối, không thể có cung bằng cầu tuyệt đối, tạm thời; còn mặt cân đối là thường xuyên, là tuyệt đối. Vì cung và cầu không ngừng vận động, chịu tác động nhiều nhân tố mà những nhân tố này luôn luôn biến động nên cung và cầu cũng không ngừng biến động theo, luôn tạo lập các điểm cân bằng mới. Như vậy, quan hệ qua lại và co chế tương tác giữa cung - cầu và giá cả là sự vận động có tính quy luật của thị trường 3.Vị trí và vai trò của quan hệ cung - cầu: a. Thúc đẩy sản xuất phát triển: Chính vì sản xuất đóng vai trò quyết định đến tiêu dùng nên ta biết được khối lượng hàng hoá và cơ cấu hàng hoá cho tiêu dùng là bao nhiêu. Đồng thời nhờ vào cung cầu mà nhà koanh nghiệp biết thêm được về phương thức sản xuất hàng hoá đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Từ đó kích thích các doanh nghiệp xản xuất ra được nhiều sản phẩm mới tốt hơn đưa ra thị trường phục vụ khách hàng, thu nhập được vốn, có lãi suất tăng, dẫn đến sản xuất ngày càng thúc đẩy phát triển mạnh. b. Quan hệ cung cầu điều tiết tiêu dùng: Tiêu dùng tác động ngược trở lại đến sản xuất; tiêu dùng là mục đích của sản xuất, chỉ có thông qua tiêu dùng mới đánh giá kết quả của sản xuất, sản phẩm mới đích thực là sản phẩm tiêu dùng nảy sinh ra nhu cầu mới, định hướng cho sản xuất phát triển. c. Quan hệ cung cầu tác động trực tiếp đến các quan hệ kinh tế lớn khác: Quan hệ cung cầu là quan hệ qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa người bán và người mua, giữa khối lượng hàng hoá và tiền tệ. Đây là một trong những mói quan hệ kinh tế lớn trong nền kinh tế hàng hoá, đóng vai trò quan trọng để phát triển kinh tế hàng hoá đặc biệt tác động trực tiếp đến sản xuất và tiêu dùng. II) Thực trạng về quan hệ cung - cầu một số mặt hàng: 1. Sự biến động giá một số mặt hàng trong thời gian gần đây: a. Mặt hàng lương thực, thực phẩm ( gạo ): Giá cả mặt hàng lương thực (gạo) trong thời gian gần đây tăng cao. Tại Việt Nam giá chào bán gạo tháng qua tăng 25-32 USD/tấn. Theo tờ tạp chí thương mại tháng 4-2004 cho biết: "trung tuần tháng 4 so với cuối tháng 3 giá thóc gạo tại ĐBSCL vẫn tiếp tục tăng, gạo nguyên liệu dành cho xuất khẩu ở mức 2.850-2.930 đ/kg. Giá gạo thành phẩm 5%,10%,15%,25% ở mức tương ứng 3.530, 3.430, 3.340, 3.160 đ/kg tăng từ 110-190 đ/kg. Tuần nàygiá chào bán gạo 5% tấm tăng lên 215 USD/tấn, FBO cảng Sài gòn, từ mức 207-208 USD/tấn tuần trước. Gạo 25% tấm tăng lên 200 USD/tấn từ mức 198USD/tấn tuần trước". Trong tháng 10 giá gạo vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao. Gạo tẻ loại thường tại Hà Nội: 4.400 đ/kg; tại Đà Nẵng: 3.700đ/kg; tại TP Hồ Chí Minh: 3.800 đ/kg; tại Cần Thơ: 3.500 đ/kg. Giá gạo xuất khẩu thị trường châu ảtong nửa đầu tháng 8/2004 tiếp tục tăng. Tính đến cuối tuần thứ hai của tháng 8, giá gạo các phẩm cấp có xuất xứ từ VN, Thái Lan tăng trung bình 4-6 USD/tấn. So với hồi đầu tháng, gạo 5% tấm của Thái Lan đạt 248 USD/tấn, tăng 6 USD trong khi gạo cùng phẩm cấp của Việt Nam tăng 4USD/tấn. b. Tình hình biến động giá cả thị trường xăng dầu trong thời gian gần đây: Giá xăng dầu trên thị trường thế giới đang biến động phức tạp. Giá dầu thô có lúc lên gần 50 USD/thùng. Vào trung tuần tháng10/2004 giá dầu không những đã vượt qua ngưỡng 50 USD/thùng mà còn đạt mức giá cao nhất trong vòng 21 năm qua, với 55,3 USD/thùng và đến ngày 19-20/2004 lại tụt xuống mức trên 53 USD/thùng. (Theo tờ thời báo kinh tế sô ra ngày27/10/2004) Như vậy giá dầu thô vẫn tiếp tục leo thang với mức giá cao chưa từng thấy. Giá dầu thô tai New York giao tháng 3/2004 đã tănng lên tới 29,92 USD/thùng. Giá dầu thô ngọt nhẹ chuẩn của New York giao trong tháng 4 tăng vọt 70 xu lên tới 36,68 USD/ thùng, mức cao nhất kể từ ngày 12/3/2003 trước khi nổ ra cuộc tấn công I-rắc. Giá dầu thô Brent biển bắc giao trong tháng 4 tăng 1.11 USD lên 33,34USD. c. Tình hình biến động giá cả thị trường thép xây dựng: Mặt hàng thép xây dựng trong năm 2004 liên tục tăng giá. Theo tờ thời báo kinh tế tháng 2/2004 cho biết: "giá bán thép xây dựng trong nước tăng từ 400-600 đ/kg so với tuần trước. Giá bán thép trên thị trường Hà Nội tăng trên46% so với cùng kỳ năm 2003 (thép cuộn - 8.400 đ/kg). Trong khi đó giá phôi nhâpj khảu hiện rất cao và có xu hướng tiếp tục tăng giá bán thép phải khoảng 9.000 đ/kg; có VAT mới đủ". Đến sau ngày 15/6, sau một thời gian giá thép có giảm nhẹ đã bắt đầu có chiều hướng nghe ngóng để đi lên. Tính đến thời điểm 1/7/2004, ngày quyết định số 53 có hiệu lực thì chỉ có DN thuộc tổng công ty là công ty gang thép Thái Nguyên, Thép miền Nam, Thép Đà Nẵng và Thép miền Trung còn giữ nguyên giá bán. Còn lại thép cuộn của các DN tại miền Bắc đều tăng giá khá cao. Giá thép cuộn tại miền Bắc từ 6 triệu đồng/tấn -6,5 triệu đồng/tấn, đã tăng giá lên 7 triệu đồng/tấn. Thép cuộn của công ty thép Việt- Hàn(VSP) tăng 6,5 triệu đồng/tấn lên 7 triệu đồng/tấn; thép cuộn Hoà Phát tăng từ 6,3 triệu đồng/tấn lên 7,2 triệu đồng/tấn, thép cây tăng dứng ở mức 7,8-8 triệu đồng/tấn. Theo tạp chí thương mại tháng 7/2004 cho biết: "Thời điểm tuần đầu tháng 7, giá thép các loại tiếp tục tăng lên, mới cách đây một tuần giá thép tiếp tục tăng lên đến 300.000 đồng/tấn, đặc biệt là của các doanh nghiệp miền Bắc. Giá thép cuộn ở mức 7,7 triệu đồng/tấn, thép cây lên đến 8 triệu đồng/tấn. Đến nay, tin chính thức từ Hiệp hội thép Việt Nam cho biết, giá thép đã lên tới 8 triệu đồng/tấn thép cây, 8,3 triệu đồng/ tấn thép cuộn". Như vậy, nếu so với thời điểm giữa tháng 6 thì mức giá đã tăng khoảng gần 2 triệu đồng/ tấn. Có thời điểm giá thép lên tới mức "sốt nong" hơn 9 triệu đồng/ tấn do tình trạng đầu cơ, găm giữ hàng. 2. Những nguyên nhân của những cơn sốt giá: a. Những nguyên nhân khiến giá gạo tăng cao trong thời gian qua: Giá gạo tăng chủ yếu là do giá nội địa những nước sản xuất chính như Thái Lan và Việt Nam cao và nhu cầu mua cao. Tại VN giá gạo tăng là do nhu cầu mua hàng trăm tấn gạo thực hiện các hợp đồng đã ký với Cu ba, châu phi, phi-lip-pin, I-rắc và Hàn quốc. Đồng thời giá chào bán gậothngs qua cũng tăng 25-32 USD/ tấn. Cuối tháng3, các tỉnh ĐBSCL hầu như đã kết thúc thu hoạch vụ lúa Đông xuân, nông dân càng hạn chế bán thóc gạo ra. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo VN tích cực tìm kiếm nguồn hàng để thực hiện các hợp đồng đã ký. Vì vậy khiến giá chào bán gạo của VN tăng cao. Ngoài ra, giá gạo tăng còn do sản xuất lương thực vụ đông xuân ở miên Bắc gặp khó khăn kéo dài ( năm hạn nhất trong 40 năm trở lại đây là năm rét đậm kéo dài nhất trong 8 năm gần đây, tác động làm giá lương thực tăng. Giá phân bón nhập khẩu tăng kéo theo gia lương thực tăng, xu hướng này vẫn còn đang tiếp tục tác động. Do nguồn cung cho xuất khẩu ở các nước xuất khẩu chủ yếu không đủ và nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thế giới cao. Thêm vào đó, năm 2004- nhuận hai tháng do đó làm tăng cầu giảm cung, tác động làm tăng giá lương thực. b. Những nguyên nhân của cơn sốt giá xăng dầu thời gian qua: Do tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới ngày càng khả quan hơn do các trung tâm kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc đều có mức tăng trưởng kinh tế trên 10%/ năm. tiếp theo do nguồn cung dầu thô về cơ bản không có gì mới. nguồn cung dầu thô của I-rắc lại không ổn định vì những bất ổn về chính trị. Trước đây OPEC giữ vị trí quyết định trong việc điều chỉnh giá dầu khi cần thiết , nhưng gần đây OPEC gần như " bất lực". Mới đây OPEC đưa ra biện pháp hạn chế tăng giá bằng cách tăng hạn ngạch sản xuất dầu thô lên 2 triệu thùng/ ngày so với trước , nghĩa là từ mức 24 triệu thùng/ ngày lên 26 triệu thùng/ ngày. Nhưng sự điều chỉnh này chỉ có tác dụng làm chững giá dầu trong vài ngày, sau đó giá vẫn tiếp tục tăng. Ngày 15/9/2004, OPEC lại đưa ra quyết định nâng mức sản xuất dầu thô lên 27 triệu thùng một ngày nhưng hầu như không có tác dụng gì trong việc giảm giá dầu thô trên thị trường thế giới. Thêm vào đó, những nước ngoài khối OPEC như CHLB Nga, sản lượng khai thác không ổn định, không đủ cung cấp cho khách hàng càng làm tăng độ sốt nống của mặt hàng này. Nhìn chung nguyên nhân chính khiến dầu thô liên tục tăng cao là do sự mất cân đối giữa cung và cầu. c. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá thép trên thị trường liên tục tăng trong thời gian gần đây: Do nhu cầu thép trên thị trường thế giới vẫn tăng mạnh. Đặc biệt là ở Trung Quốc. Nhu cầu thép xâu dựng ở Trung Quốc tăng rất mạnh để đáp ứng những công trinh xây dựng khổng lồ phục vụ cho Olympic nên nước này tăng vọt lượng phôi thép nhập khẩu. Nguồn cung ứng nguyên liệu thô như quặng sắt, thép phế, than coke khan hiếm, khiến chi phí sản xuất tăng , buộc các nhà máy thép phải tăng giá bán để bù đắp vào chi phí đầu vào tăng cao: "giá phôi thép được nhập khẩu vào Việt Nam ngày 15/6/2004là 500 USD/ tấn(tương đương với khoảng 8 triệu đồng/ tấn)"_ Theo tạp chí thương mại tháng 6/2004 Giá cước vận chuyển vẫn ở mức cao và việc thuê tàu ngày càng khó khăn ( phí vận tải từ biển Đen đến các nước Đông Nam á hiện nay ở mức 70-80 USD/ tấn, tăng qấp đôi so với mức bình thường). Vì thế giá phôi thép nhập khẩu vào Việt Nam sẽ con tăng vựot quâ mức 500 USD/ tẩn trong thời gian tới. 3.Tác động của những cơn sốt giá đến phát triển kinh tế - xã hội: Những cơn sốt giá liên tục cùa các mặt hàng trọng yếu như lương thực, thực phẩm, xăng dầu, nguyên vật liệu xây dựng ... đã tác động lớn đến phát triển kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng giá mặt hàng tiêu dùng như hiện nay ảnh hưởng lớn tới đời sống dân cư, nhất la những người làm công ăn lương; đồng thời nó làm tăng giá thành các sản phẩm trong nước; ảnh hưởng đến xuất khẩu, đến lãi xuất tín dụng tác động đến tăng trưởng kinh tế- xã hội. Ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội qua cơn sốt giá dầu. theo ước tính, mỗi năm cả nước tiêu thụ khoảng 12 triệu tấn xăng dầu các loại. Theo tính toán của Petrolimex, với giá nhập khẩu và giá bán như hiện nay, mặt hàng dầu diezel và dầu hoả đang phải chịu lỗ khoảng 1.300 đồng/ lít, riêng đối với mặt hàng xăng dầu thì hoà vốn. Nhà nước đã bù lỗ xăng dầu cho các doanh nghiệp tư nhân đến tháng 5/2004. Tuy nhiên, nếu gí xăng dầu quốc tế tiếp tục biến động theo theo chiều hướng tăng sẽ làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn vè vốn. Các đơn vị đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu như Petrolimex, Saigon petro, Petee đều cho biết đang rơi vào tìng trạng lỗ và sắp tới sẽ còn lỗ nặng. Nhà nước phải lien tục bù lỗ cho các mặt hàng để giữ cho thị trường ổn định. Vì vậy sẽ tác dộng đến phát triển kinh tế. Tuy nhiên do có sự chỉ đạo của các doanh nghiệp nhà nước, không cho phép một số doanh nghiệp được tăng giá tiêu thụ trong nước để ổn định giá cả, nên trước mắt các doanh nghiệp này cố thể chấp nhận giảm doanh thu , giảm lợi nhuận để giữ giá bán hàng hoa dịch vụ chờ một thời gian cầm cự qua cơn sóng gió này. Nhưng sự cầm cự kéo dài dược bao lâu hay dịu đi hoặc sẽ bùng phát gay go hơn và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị tác động đến mức nào sau giai đoạn này, khi mà các doanh nghiệp đồng loạt phải tăng giá Nhiều chuyên gia cho rằng, giá xăng dầu tăng đột biến là một điều rất bất lợi cho nền kinh tế trong tình hình hiện nay và nếu áp dụng giá thé giới vào thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể chịu nổi. Vậy thì vấn đề đặt ra là phải bình ổn thị trường cân đối cung cầu để góp phần phát triển kinh tế - xã hội ổn định. Một việc làm cấp thiết là ổn định vĩ mô, phấn đấu vẫn đạt cho được tốc độ tăng trưởng GDP từ 7,5-8%, đồng thời tim mọi biện pháp từ nay đến cuối năm phải kéo chỉ số giá tiêu dùng xuống. Trong sau thang đầu năm 2004mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tăng cao nhưng chính phủ vẫn kiểm soát tốt kinh tế vĩ mô. Việc tăng giá xăng dầu là cần thiết nhưng nhìn chung kinh tế vĩ mô vẫn chịu đựng được và giá cả tăng chính là cơ hội để nền kinh tế và các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28352.doc
Tài liệu liên quan