Tiểu luận Mối quan hệ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế, liên hệ thực tiễn ở Việt Nam

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

I. LỜI NÓI ĐẦU 2

II.NỘI DUNG 3

Phần I: Cơ sở lý luận 3

1. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội và Tăng trưởng kinh tế: 3

1.1. Khái niệm về Bảo hiểm xã hội: 3

1.2. Khái niệm về chính sách Bảo hiểm xã hội: 3

1.3. Khái niệm về Tăng trưởng kinh tế: 3

2. Chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế: 4

2.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế. 4

2.2. Tăng trưởng kinh tế tác động tích cực trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. 7

Phần II: Mối quan hệ giữa chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế ở 10

Việt Nam. 10

1. Thực trạng chính sách BHXH tác động đến tăng trưởng kinh tế 10

1.1. BHXH bắt buộc 1

1.2. BHXH tự nguyện 3

1.3. Bảo hiểm thất nghiệp 4

2. Tăng trưởng kinh tế tác động đến chính sách BHXH 8

Phần III. Giải pháp 10

3.1. Biện pháp: 10

3.1.1. Về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật 10

3.1.2. Về chế tài bảo đảm việc thực thi pháp luật BHXH, BHYT 10

3.1.3. Về thực hiện BHXH tự nguyện 11

3.2. Kiến nghị 11

III. KẾT LUẬN 14

Tài liệu tham khảo 16

 

doc26 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5168 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa các chính sách bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế, liên hệ thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lí được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH. Như vậy, ở một phương diện nhất định, chính sách BHXH thể hiện trình độ văn minh của quốc gia. Quốc gia càng văn minh thì nhận thức của họ về vai trò của BHXH càng tăng. + Hoạt động BHXH góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt với bảo hiểm hưu trí, nguồn vốn tich lũy trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia BHXH, Cơ quan BHXH và nền kinh tế xã hội nói chung. + Thông qua chính sách BHXH bắt buộc, BHXH còn góp phần làm cho quá trình sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn nhanh chóng hơn. Tức là BHXH đã góp phần làm cho kinh tế xã hội phát triển. Chính sách BHXH được thiết kế hợp lí sẽ có tác dụng tích cực thông qua việc gia tăng các cơ hội giáo dục, dịch chuyển nguồn lao động, giữ vững ổn định xã hội. Nguồn quỹ BHXH hình thành từ sự đóng góp chủ yếu của người lao động và người sử dụng lao động, ngoài việc thực hiện chi trả, đảm bảo quyền lợi thụ hưởng của người tham gia BHXH, một phần còn được đầu tư vào cá hoạt động sinh lời theo nguyên tắc đảm bảo an toàn, hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết. Nếu nguồn quỹ BHXH được đầu tư đúng hướng và hiệu quả, một chính sách BHXH được thiết kế hợp lí sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chức năng của quỹ BHXH là để chi trả các trợ cấp BHXH và chi phí cho các hoạt động của hệ thống BHXH. Tuy nhiên, do tính đặc thù, các chi phí BHXH phát sinh không đồng đều và dàn trải theo thời gian và theo không gian, đặc biệt là các chi phí cho các trợ cấp dài hạn, ngân quỹ BHXH luôn luôn có một lượng "nhàn rỗi tương đối" chưa dùng đến. Và quỹ BHXH cũng là một quỹ tiền tệ, nên cần được đưa vào sử dụng để bảo toàn và tăng trưởng giá trị. Cũng do tính đặc thù, nên việc đầu tư của quỹ BHXH không thể như những quỹ kinh doanh khác, mà phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản là: an toàn, thuận tiện khi thu hồi vốn, phục vụ cho những lợi ích công cộng. Vì vậy, những hướng đầu tư của quỹ BHXH thường là cho Chính phủ vay hoặc trực tiếp được đầu tư vào các dự án phát triển hoặc những công trình phúc lợi (xây nhà ở cho người lao động, xây dựng đường xá). Ơ Pháp, quỹ BHXH lớn gấp 3 - 4 lần ngân sách của Chính phủ và thường được đầu tư vào phát triển hạ tầng cơ sở. Phần nhàn rỗi của quỹ BHXH của Italia chủ yếu được đầu tư vào phát triển nhà ở cho người lao động thuê lại. Hiện nay, số tiền nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH lên tới 30.000 tỷ đồng. Nếu được đầu tư tốt sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế rất lớn. Các khoản đầu tư này của quỹ BHXH một mặt tạo ra lợi nhuận cho quỹ BHXH; mặt khác đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đây chính là mối quan hệ bản chất (theo chiều thuận) giữa BHXH và tăng trưởng kinh tế. 2.2. Tăng trưởng kinh tế tác động tích cực trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. Tăng trưởng kinh tế gia tăng cơ hội có việc làm đồng thời gia tăng cơ hội mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách BHXH. Mối quan hệ này là tích cực chỉ khi các nhà hoạch định chính sách phải thiết kế được một chính sách BHXH hợp lí đảm bảo được mối quan hệ về lợi ích hài hòa giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước, không chỉ đảm bảo lợi ích trước mắt mà đáp ứng được cả lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH trong sự phát triển bền vũng và công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường việc tham gia BHXH được thể hiện thông qua việc đóng góp BHXH của các bên. Như vậy, trong mối quan hệ đóng góp của ba bên này đều có liên quan đến thu nhập. Đối với người lao động đóng góp BHXH liên quan đến thu nhập, tiền lương. Đối với người sử dụng lao động đó là quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Đối với Nhà nước là khoản chi từ ngân sách. Đối với người lao động, để vừa đảm bảo được những chi tiêu thường xuyên và ngày càng tăng lên của gia đình và vừa thực hiện được nghĩa vụ đóng BHXH, họ phải tìm cách để tăng thu thu nhập, nghĩa là phải làm việc nhiều hơn hoặc làm việc có năng suất, có hiệu quả hơn để được trả lương cao hơn. Khi người lao động làm việc có năng suất, có chất lượng, doanh nghiệp cũng có lợi ích, doanh thu và thu nhập của doanh nghiệp tăng cao hơn và cũng có điều kiện hơn để thực hiện tốt hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động. Khi người lao động và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước sẽ có nguồn thu nhiều hơn (thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) có điều kiện tài chính tốt hơn để đóng góp cho quỹ BHXH. Có thể nói, hiệu ứng tích cực từ tăng trưởng kinh tế là tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống tốt hơn, tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế. Người lao động có thu nhập càng cao và ổn định , họ sẽ càng có điều kiện tốt hơn , để tham gia BHXH. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mới thực hiện chính sách BHXH, cần thu hút nhiều người tham gia BHXH. Đây là tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đối với BHXH. Đồng thời, khi kinh tế phát triển, Nhà nước và các doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư thêm các trang thiết bị hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Nhờ vậy, những rủi ro trong lao động như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ giảm đi và do đó quỹ BHXH sẽ giảm chi cho quỹ BHXH do đối tượng hưởng giảm. Đây là ảnh hưởng, tác động tiếp của tăng tưởng kinh tế đối với BHXH. Mặt khác, khi kinh tế tăng trưởng, Nhà nước có khả năng hơn để cải thiện điều kiện sống cho người lao động, như đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng, đầu tư cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho người dân nói chung và người lao động nói riêng. Nhờ vậy, người lao động ít bị những “ rủi ro xã hội” hơn, như giảm được tai nạn, ốm đau, bệnh tật, giảm được những rủi ro khi sinh đẻ (đối với lao động nữ). Đây cũng là ảnh hưởng tác động gián tiếp của tăng trưởng kinh tế đối với chính sách BHXH. Ngoài ra khi kinh tế tăng trưởng, môi trường kinh doanh được hoàn thiện, hệ thống pháp luật sẽ hoàn thiện hơn, việc đầu tư của quỹ BHXH càng tốt hơn, an toàn hơn, tránh được những rủi ro từ kinh tế, góp phần tăng trưởng quỹ BHXH. Tăng trưởng kinh tế làm tăng phần sản phẩm xã hội phân bổ cho việc trợ cấp,cải thiện lương hưu cho người về hưu. Tăng trưởng nhanh chóng cũng có thể làm giảm bớt việc tăng mức đóng cho người lao động và người sử dụng lao động mà vẫn đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH. Tóm lại, dưới góc độ kinh tế, chính sách BHXH đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và ngược lại, tăng trưởng kinh tế đã có tác động tích cực, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới chính sách BHXH. Đây là những tác động 2 chiều, trong đó yếu tố thúc đẩy là chủ đạo. Một chính sách BHXH hợp lý, với cơ chế chính sách thích hợp, xác định mức đóng BHXH và đầu tư cho chương trình ASXH hợp lý sẽ có tác động tích cực góp phần ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế, đáp ứng mục tiêu công bằng và phát triển xã hội trong sự bền vững. Phần II: Mối quan hệ giữa chính sách BHXH và tăng trưởng kinh tế ởViệt Nam. Thực trạng chính sách BHXH tác động đến tăng trưởng kinh tế TÌNH HÌNH THAM GIA BHXH GIAI ĐOẠN 2008- 2010 Đơn vị tính: ĐƠN VỊ, NGƯỜI, % TT LOẠI HÌNH QUẢN LÍ Năm 2008 Ước năm 2009 Năm 2010 (dự kiến) Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG 1 2 3 4 5 6  7  8  9 10 11 A BHXH BẮT BUỘC 166,826 8,539,467 179,020 9,101,040 199,379 9,655,400 1 HCSN, Đảng, ĐT, LLVT 61,801 3,128,209 36.6% 62,419 3,177,986 34.9% 63,040 3,210,000 37.6% 2 Ngoài công lập 4,987 119,033 1.4% 5,427 129,877 1.4% 5,905 135,000 1.6% 3 Xã, Phường, Thị trấn 11,279 212,800 2.5% 11,335 221,015 2.4% 11,392 223,000 2.6% 4 Doanh nghiệp Nhà nước 8,180 1,315,102 15.4% 8,180 1,330,374 14.6% 8,180 1,335,000 15.6% 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 8,761 1,753,800 20.5% 9,637 1,963,550 21.6% 10,408 2,270,000 26.6% 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 63,102 1,951,153 22.8% 75,722 2,198,624 24.2% 89,352 2,395,000 28.0% 7 Hợp tác xã 8,618 56,935 0.7% 6,198 74,113 0.8% 10,997 81,600 1.0% 8 Lao động có thời hạn ở nước ngoài 98 2,435 0.03% 102 5,500 0.1% 105 5,800 0.07% B BHXH TỰ NGUYỆN 6,110 34,669 118,000 C BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 5,411,886 5,835,190 1 Hành chính sự nghiệp, Đảng, ĐT 64,200 2 Ngoài công lập 114,750 3 Xã, Phường, Thị trấn 4,460 4 Doanh nghiệp Nhà nước 1,268,250 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 2,043,000 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2,275,250 7 Hợp tác xã 65,280 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam) BHXH bắt buộc + Thành tựu: 15 năm qua, BHXH Việt Nam đã giải quyết chế độ chính sách cho gần 1,2 triệu người hưởng bảo hiểm xã hội thường xuyên, trợ cấp một lần cho 2,9 triệu người, giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho 26,1 triệu lượt người và dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 5,7 triệu người.Năm 2009, số người tham gia BHXH bắt buộc đạt hơn 9,1 triệu người, trong đó khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang chiếm tỷ trọng cao nhất với 34,9 %.Doanh nghiệp nhà nước chiếm 14,6%.Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,6%. TÌNH HÌNH THU BHXH 2008- 2009 Đơn vị : tỷ đồng STT CHỈ TIÊU Năm 2008 Ước thực hiện năm 2009 1 Thu đóng góp của người lao động và người SDLĐ 30.821,013 39.873,588 1.1 Thu quỹ ốm đau và thai sản 4.390,500 5.551,704 1.2 Thu quỹ TNLĐ- BNN 1.540,513 1.850,568 1.3 Thu quỹ hưu trí, tử tuất 24.879,200 29.609,134 1.4 Thu quỹ BHXH tự nguyện 10,800 65,582 1.5 Thu quỹ BHXH thất nghiệp (cả hỗ trợ ngân sách nhà nước) 2.796,600 2 Thu lời từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH 8.987,390 8.407,602 3 Thu từ NSNN chuyển sang chi trả trợ cấp 23.719,398 26.464,866 4 Thu khác (lỗi phạt chậm đóng BHXH) 129,139 134,600 TỔNG 63.656,940 74.880,656 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam) Về công tác thu, BHXH Việt Nam đã tập trung và áp dụng nhiều biện pháp tổ chức thực hiện thu, đảm bảo thu đầy đủ, đúng đối tượng, kịp thời và tuân thủ đúng qui định của Nhà nước, góp phần làm căn cứ giải quyết chế độ cho người tham gia được đầy đủ, kịp thời, chính xác. Năm 2009, số thu BHXH đạt 37.011 tỷ đồng, số thu BHYT là 13.174 tỷ đồng. Về chi BHXH, đến nay, ngành BHXH đang tổ chức chi trả cho hàng triệu lượt người hưởng trợ cấp một lần. Số tiền chi trả mỗi năm là hàng chục nghìn tỷ đồng. (Năm 2009, chi trả 54.403 tỷ đồng). Về chi khám, chữa bệnh BHYT, do việc mở rộng quyền lợi cho người tham gia nên số lượt người khám, chữa bệnh BHYT và chi phí khám, chữa bệnh BHYT tăng nhanh. Năm 2009, số lượt khám, chữa bệnh BHYT là trên 88 triệu lượt người; chi phí khám, chữa bệnh là 14.499 tỷ đồng. + Hạn chế: Tuy nhiên, đến nay số đối tượng tham gia BHXH còn ít, năm 2008 mới có khoảng 19% lực lượng lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH hưu trí- tử tuất vẫn chưa đảm bảo cân đối dài hạn. Theo nguồn tin của BHXH Việt Nam, năm 2008, số người tham gia BHXH đạt gần 8,6 triệu người, tăng 6,4% so với năm 2007, số lao động tham gia BHXH tăng chủ yếu trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài và hợp tác xã. Riêng số người tham gia BHXH tự nguyện đến cuối năm 2008 mới có 6,110 người, trong đó trên 80% là số người trước đó tham gia BHXH bắt buộc. Năm 2008, số thu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động vào quỹ BHXH được gần 30.821 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2007, trong đó thu quỹ ốm đau và thai sản4.390 tỷ đồng; quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp1.540 tỷ đồng; quỹ hưu trí và tử tuất trên 24.879 tỷ đồng. Nhưng, tình trạng nợ , chậm đóng BHXH vẫn còn nan giải. Năm 2009, số tiền nợ đóng, chậm đóng BHXH bắt buộc là 2.093,7 tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 43,46% , doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm 32,96% , khu vực hành chính sự nghiệp chiếm 3,68%. TÌNH HÌNH CHẬM ĐÓNG, NỢ BHXH 2008 - 2009 Đơn vị: tỷ đồng STT Đối tượng Năm 2008 TỶ LỆ (%) Năm 2009 TỶ LỆ (%) A BẢO HIỂM XỂ HỘI BẮT BUỘC 2.286,2 2.093,7 1 Hành chính sự nghiệp, Đảng, ĐT, LLVT 125,3 5,48 77,0 3,68 2 Ngoài công lập 12,6 0,55 11,5 0,55 3 Xã, Phường, Thị trấn 20,7 0,91 14,0 0,67 4 Doanh nghiệp Nhà Nước 465,7 20,37 382,0 18,25 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 724,7 31,70 690,0 32,96 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 926,3 40,52 910,0 43,46 7 Hợp tác xã 8,2 0,36 7,0 0,33 8 Lao động có thời hạn ở nước ngoài 1,0 0,04 0,7 0,03 9 Đối tượng khác 1,7 0,07 1,5 0,07 B BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 55,4 TỔNG CỘNG 2.286,2 2.149,1 1.2. BHXH tự nguyện + Thành tựu: Bắt đầu thực hiện từ tháng 1/2008, sau gần 2 năm triển khai thực hiện, đã có trên 34 nghìn người tham gia BHXH tự .Đối với BHXH Việt Nam thì đây là một “thị trường” to lớn và đầy tiềm năng, đông đảo về đối tượng, đa dạng về điều kiện, hoàn cảnh và khả năng kinh tế. Và đây cũng là một “thị trường” hoàn toàn mở  đối với người lao động trong cả nước. Vấn đề còn lại đối với nhà tổ chức là các chính sách tiếp cận, thuyết phục, tìm giải pháp khả thi trong thực hiện để đông đảo người lao động thuộc khu vực này có thể dễ dàng tham gia. BHXH tự nguyện được triển khai sẽ đem lại nhiều lợi ích. Bởi hiện nay, nhiều người vẫn mang nặng tâm lý muốn có chế độ ổn định khi hết tuổi lao động (lương hưu). Vì vậy, một khi mọi người lao động đều được hưởng lương hưu, chắc chắn, áp lực về công việc trong khối doanh nghiệp Nhà nước sẽ được giảm đáng kể. người lao động cũng sẽ yên tâm làm việc ở mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ gia đinh. Riêng đối với BHXH Việt Nam, khi triển khai BHXH tự nguyện, quỹ BHXH tự nguyện sẽ có nguồn thu rất lớn và là nguồn tài chính quan trọng, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước. + Hạn chế: Thực tế, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện rất thấp, nhiều địa phương chưa có người tham gia, đến hết năm 2008, cả nước mới chỉ có 6,110 người tham gia BHXH tự nguyện, với số thu 10,800 tỷ đồng. Về BHXH tự nguyện - ở hầu hết các địa phương việc triển khai còn gặp rất nhiều khó khăn. Một mặt, đối tượng tham gia loại hình này chủ yếu sống ở vùng nông thôn, thu nhập thấp, không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, đa phần là những cán bộ không chuyên trách cấp xã, người lao động tự do, người tham gia BHXH đã nghỉ việc nhưng chưa đủ 20 năm nên còn bảo lưu thời gian, chưa hưởng chế độ 1 lần. Mặt khác, công tác tuyên truyền, vận động về loại hình BHXH này còn nhiều hạn chế, chưa sâu rộng, cụ thể, thiếu hình thức phù hợp nhằm tác động trực tiếp đến đối tượng, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, làng nghề, các cơ sở dịch vụ… 1.3. Bảo hiểm thất nghiệp + Thành tựu: Sau 1 năm triển khai việc thu bảo hiểm thất nghiệp cho tới thời điểm này tổng số tiền BHTN đã thu được là 3.066 tỉ đồng. Đây là số tiền thu được từ 3% tiền lương, tiền công tháng của 5,6 triệu lao động tham gia BHTN  người lao động đóng 1%, người sử dụng lao động đóng 1% và Nhà nước lấy từ ngân sách hỗ trợ 1%) Với số tiền này thì đảm bảo sẽ không thiếu tiền để chi trả BHTN. Sở dĩ có thể khẳng định như vậy bởi gói kích cầu và các giải pháp đồng bộ của Chính phủ đã có hiệu quả tích cực khi năm 2009, nền kinh tế vẫn có mức tăng trưởng trên 5% . + Hạn chế: Do nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động còn thấp. Nhiều người lao động cho rằng cứ thất nghiệp là được hưởng trợ cấp và hưởng 1 lần là 3 tháng trợ cấp để về quê nghỉ ăn Tết. Người sử dụng lao động thì gây khó khăn trong việc hoàn thiện các thủ tục giấy tờ khi người lao động mất việc làm. Việc chốt sổ BHXH cũng gặp nhiều khó khăn vì một số doanh nghiệp nợ đóng BHXH nói chung và BHTN nói riêng nên không thể chốt sổ. Ngoài ra, trong các văn bản hướng dẫn vẫn chưa có quy định cụ thể thế nào là lý do không chính đáng khi người lao động từ chối việc làm do các trug tâm giới thiệu việc làm giới thiệu. Tác động của chính sách BHXH đến an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế: BHXH hiện nay, về cơ bản, có khả năng bảo vệ, khắc phục rủi ro cho người lao động, người dân trong cơ chế thị trường và rủi ro xã hội khác, nhất là trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động lúc tuổi già và qua đời. Đến nay, độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội ngày càng mở rộng, chất lượng cung cấp dịch vụ an sinh xã hội ngày một tốt hơn. Nếu như năm 1996 mới có 3,2 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, thì đến năm 2008, con số đó đã lên tới hơn 8,5 triệu người, tăng 2,9 lần so với năm 1996, chiếm 67% đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; lương hưu liên tục được điều chỉnh, trong 3 năm (2003 - 2005) đã điều chỉnh 5 lần, tăng từ 164,8% đến 228,8% so với trước tháng 12-2002. Tốc độ giảm nghèo nhanh và liên tục qua các năm, theo chuẩn áp dụng cho giai đoạn 2001 - 2005, đến năm 2005 chỉ còn 7% hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm từ 2% - 3%; theo chuẩn nghèo mới áp dụng từ năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 3%/năm, từ 20% đầu năm 2006, đến cuối năm 2007 còn 14,8%; người nghèo được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế và các dịch vụ xã hội cơ bản: chỉ tính riêng 2 năm (2006 - 2007) có khoảng 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn ưu đãi, 1,33 triệu lượt hộ nghèo được hướng dẫn cách làm ăn, 15 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế, 5 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, 230 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ nhà ở. Hằng năm, cứu trợ đột xuất cho từ 1 đến 1,5 triệu người gặp rủi ro do thiên tai, mất mùa... ổn định cuộc sống, giảm thiểu thiệt hại về người và của; đến nay khoảng 50% đối tượng cần bảo trợ xã hội được Nhà nước và cộng đồng hỗ trợ bảo đảm cuộc sống cơ bản và có phần cải thiện. Tuy nhiên, Mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội còn thấp, tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mới chiếm khoảng 16% tổng lao động xã hội và 67% đối tượng thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, nợ đọng đóng bảo hiểm xã hội còn lớn (10%). Bảo hiểm xã hội chưa có sự tách bạch giữa khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực thị trường; chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc đóng - hưởng; còn gắn chặt vào điều chỉnh tiền lương tối thiểu và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Quỹ Bảo hiểm xã hội dài hạn (thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất) thiếu vững chắc, tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối thu - chi trong dài hạn. Một số cơ chế, chính sách giảm nghèo hiện hành không còn phù hợp và có nhiều rào cản trong thực hiện; chưa có chính sách khuyến khích thoát nghèo vươn lên khá giả; xóa đói, giảm nghèo chưa gắn chặt với phát triển cộng đồng và phát triển nông thôn; tư tưởng ỷ lại, bao cấp và "bệnh" thành tích còn nặng. Kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc; tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70% - 80%), tỷ lệ tái nghèo còn cao (7% - 10%). Phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng (hiện nay là 8,37 lần); người nghèo khó tiếp cận dịch vụ xã hội và phúc lợi xã hội, nhất là dịch vụ xã hội chất lượng cao. Mức trợ cấp xã hội của Nhà nước còn thấp, chỉ bằng 1/2 chuẩn nghèo; mức độ bao phủ của các chính sách trợ giúp xã hội cũng thấp, tỷ lệ đối tượng chưa được hưởng trợ cấp còn lớn, khoảng 50% (Việt Nam có khoảng hơn 1,3 triệu đối tượng cần trợ cấp xã hội). Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện chi trả các chế độ BHXH cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội. Như vậy, một chính sách BHXH hợp lí, với cơ chế chính sách thích hợp,xác định mức đóng BHXH và đầu tư cho chương trình an sinh xã hội hợp lí sẽ có tác động tích cực góp phần ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế, đáp ứng mục tiêu công bằng và phát triển xã hội trong sự bền vững. 2. Tăng trưởng kinh tế tác động đến chính sách BHXH Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước trên thế giới bị chững lại, suy thoái và nhiều nước trước đây có tốc độ tăng trưởng khá thì nay đã phải điều chỉnh tốc độ tăng trưởng giảm đi, trong đó có Việt Nam. Đây là vấn đề mấu chốt nhất có ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng nói chung và việc ra các chính sách bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng. Lao động mất việc làm và thiếu việc làm chủ yếu rơi vào các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu hoặc có nguyên liệu nhập khẩu từ các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó, số lao động mất việc làm năm ngoái tại 41 tỉnh, thành phố là 66.707 người. Mặc dù đã chủ động lường trước được một số khó khăn, nhưng việc thực hiện kế hoạch thu của BHXH Việt Nam năm qua vẫn hết sức vất vả. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó là do năm 2009, suy thoái kinh tế đã khiến các doanh nghiệp đều gặp khó. Nhiều doanh nghiệp đã phải thu hẹp quy mô, thậm chí ngừng sản xuất, nhiều lao động bị mất việc, thiếu việc làm nghiêm trọng... Trong thời điểm khó khăn ấy, chia khó với doanh nghiệp, Chính phủ đã cho phép giãn nộp 1% bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động... Khó khăn chồng chất khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp miền Trung khi liên tiếp phải hứng chịu 2 cơn bão. Để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động (NLĐ), Chính phủ cũng cho phép hàng loạt doanh nghiệp ở các tỉnh miền Trung dừng đóng BHXH 6 tháng cuối năm. Tất cả những yếu tố này đã ảnh hưởng đến tiến độ thu BHXH chung của cả nước. Cụ thể như việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố cho biết, hiện các đơn vị hành chính sự nghiệp được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên vẫn chưa đóng bảo hiểm thất nghiệp năm 2009 cho NLĐ của đơn vị thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Nguyên nhân do cơ quan tài chính, kho bạc địa phương chưa nắm rõ Thông tư 96/2009/TT-BTC ngày 20-5-2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ tài chính đối với quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nên chưa bố trí khoản 1% quỹ tiền lương để đơn vị đóng bảo hiểm thất nghiệp. Một số tỉnh đã bố trí được khoản kinh phí này thì kho bạc nhà nước địa phương lại không chuyển cho đơn vị. Để bảo đảm quyền lợi của NLĐ cũng như tháo gỡ những khó khăn do chính sách, ngày 21-12-2009, cơ quan BHXH Việt Nam đã phải có văn bản số 4865/BHXH-BT đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo cơ quan tài chính, kho bạc địa phương bố trí và giải ngân khoản kinh phí đóng bảo hiểm thất nghiệp năm 2009 kịp thời cho đơn vị đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định. Phần III. Giải pháp 3.1. Biện pháp: 3.1.1. Về công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật + Một số nội dung còn vướng mắc do hướng dẫn chưa rõ như: giải quyết tính hưởng BHXH đối với trường hợp doanh nghiệp sau cổ phần hóa tiếp tục xếp hạng doanh nghiệp; xác định mức thu nhập hằng tháng; trách nhiệm nuôi dưỡng đối với thân nhân hưởng chế độ tử tuất để giải quyết tuất hằng tháng, tuất một lần; hướng dẫn thủ tục, trách nhiệm trong việc giải quyết chế độ đối với bệnh binh hoặc công nhân viên chức hưởng trợ cấp mất sức lao động đồng thời là thương binh... + Một số nội dung chưa có văn bản hướng dẫn như: quy định việc giám định mức suy giảm khả năng lao động của người lao động để hưởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp tổng hợp; khen thưởng đối với đơn vị sử dụng lao động làm tốt công tác an toàn vệ sinh lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Luật Bảo hiểm xã hội; thực hiện BHXH đối với người tham gia BHXH tự nguyện sau chuyển sang tham gia BHXH bắt buộc... + Một số văn bản chưa sửa đổi, bổ sung nội dung cho phù hợp với quy định của Luật như: văn bản hướng dẫn khám, chữa bệnh ngoại trú; danh mục các bệnh cần nghỉ việc để chữa trị dài ngày; hướng dẫn khai báo, điều tra, lập biên bản tai nạn lao động; hồ sơ và quy trình giám định y khoa cho người tham gia BHXH; quy định việc lập biên bản tai nạn giao thông cho người tham gia BHXH bị tai nạn trên đường đi làm việc... 3.1.2. Về chế tài bảo đảm việc thực thi pháp luật BHXH, BHYT + Cụ thể hóa và quy định rõ trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các ngành có liên quan trong việc phối hợp, kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý các vi phạm về thực hiện chính sách BHXH, BHYT; đồng thời cải cách thủ tục, trình tự xử phạt sao cho đơn giản, thuận tiện và hiệu quả. + Nâng mức phạt và bổ sung hình thức truy tố trước pháp luật đối với các hành vi vi phạm pháp luật về đóng BHXH. 3.1.3. Về thực hiện BHXH tự nguyện Để thu hút được nhiều đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, các bộ, ngành, chính quyền địa phương, tổ chức đoàn thể các cấp theo chức năng của mình phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện với mục tiêu ổn định đời sống nhân dân, th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận Lý thuyết bảo hiểm - Mối quan hệ giữa chính sách Bảo hiểm xã hội và tăng trưởng kinh tế.doc
Tài liệu liên quan