Tiểu luận Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên

Nếu trong vật lý học cổ điển, do các đối tượng nghiên cứu nói chung là trực quan được, và đều ở trong cùng một tầng cấu trúc vĩ mô, nên đã có tác dụng nuôi

dưỡng lập trường duy vật ở các nhà khoa học, thì những đặc điểm vừa nêu trên của thế

giới vi mô lại tạo điều kiện khách quan cho sự xuất hiện lập trường duy tâm ở các nhà nghiên cứu. Lập trường này lại được củng cố khi quan điểm siêu hình, vốn là cơ sở

của nhận thức của vật lý học cổ điển và đã ăn sâu trong ý thức của nhiều nhà khoa học,

bị phá sản trước nhiều hiện tượng vật lý mới mà họ không thể giải thích được vì không hiểu phép biện chứng. Với đặc điểm của thế giới vi mô, các nhà khoa học phải dựa vào

kết quả quan sát, đo lường vĩ mô để xây dựng các lý thuyết được hình thức hóa rất cao

và sử dụng công cụ toán học rất trừu tượng. Nhưng có một điều mà họ ít chú ý là chính các lý thuyết toán học mà các nhà khoa học đã sử dụng đã ẩn dấu trong đó phép biện chứng, và chính nhờ đó mà các lý thuyết, sau khi được thực nghiệm xác nhận, đã có

thể phản ánh đúng đắn sự diễn biến của các đối tượng vi mô tồn tại khách quan. Khoa học hiện đại đòi hỏi một phương pháp nhận thức mới ra đời – phương pháp biện chứng

– thay thế cho phương pháp nhận thức cũ – phương pháp siêu hình, đúng như nhận

định của V.I.Lênin: “vật lý học hiện đại đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và

điều tất yếu để vật lý học thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng – khi chuyển từ vật lý học cổ điển sang vật lý học hiện đại – là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”.

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 39293 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tiếp cận trừu tượng – siêu hình và cách tiếp cận này phù hợp với quan điểm siêu hình về trạng thái thế giới. Trong thí dụ nói ở đoạn trên, khi trừu tượng hóa sự biến dạng và sự tỏa nhiệt trong sự va chạm của hai hòn bi, sự nghiên cứu sẽ đơn giản hơn rất nhiều, mặt khác sự trừu tượng hóa đó thì hiện tượng xảy ra lại phù hợp với quan niệm siêu hình là vận chất và vận động là tách rời nhau. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển của vật lý học – giai đoạn cơ học – đặc điểm của đối tượng nghiên cứu là các sự vật của thế giới trung bình, đã tạo ra sự thống nhất giữa hai mặt của phép siêu hình – quan điểm về cách tiếp cận nhận thức và quan điểm về trạng thái – nhờ đó đã thúc đẩy sự phát triển của cơ học, đem lại nhiều thành tựu rực rỡ. Đó là biểu hiện tích cực của chủ nghĩa duy vật siêu hình, trong giai đoạn đầu của sự phát triển của vật lý học. Nhưng vât lý học càng phát triển, nhất là từ giai đoạn sau cơ học, với các đối tượng nghiên cứu là hình thức vận động của vật chất, bề ngoài rất khác nhau và rất khác với vận động cơ học (nhiệt, quang, điện từ), cách tiếp cận nhận thức trừu tượng – siêu hình, tách rời từng dạng vận động để nghiện cứu đã không phù hợp, đòi hỏi phải chuyển mạnh sang cách tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng ở những mức độ khác nhau, tùy theo đối tượng nghiên cứu. Ở đây xuất hiện mâu thuẫn giữa một bên là đối tượng nhận thức giai đoạn sau cơ học, đòi hỏi phải thay đổi cách tiếp cận nhận thức (cách tiếp cận nhận thức trừu tượng siêu hình mang tính tương đối không đáp ứng được) và một bên là quan điểm về trạng thái được cố định ở các khái niệm (thể hiện sự cứng nhắc của các nguyên tắc siêu hình). Về mâu thuẫn này, Ăngghen cũng đã đề cập tới khi ông nói rằng: “Phương pháp tư duy siêu hình dù là chính đáng và cần thiết đến đâu đi nữa trong nhiều lĩnh vực, thì sớm hay muộn thế nào nó cũng vấp phải một hàng rào mà vượt qua hàng rào đó thì nó sẽ trở thành phiến diện, chật hẹp, trừu tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được”. Để giải quyết những mâu thuẫn trên đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng trong một số nhà triết học và khoa học ngay trong giai đoạn cơ học và tiếp diễn cho đến thế kỷ XIX khi Mác, Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ngoài các tiền đề về kinh tế - xã hội, về lý luận, sự xuất hiện của triết học Mác còn dựa trên các tiền đề về KHTN, trong đó có ba phát minh lớn là định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa, đã chứng minh cho phép biện chứng về mặt tự nhiên. Nhưng các tư tưởng biện chứng về mặt tự nhiên cũng không thể làm thay đổi được nền móng của tòa lâu đài vật lý học cổ điển, bao gồm hệ thống khái niệm quán triệt các nguyên tắc siêu hình, và in sâu trong đầu óc của các nhà khoa học. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “… nền triết học cận đại, tuy cũng có những đại biểu suất sắc của phép biện chứng (như Đềcác, Spinôda) nhưng lại ngày càng sa lầy vào phương pháp tư duy gọi là siêu hình, …”. Mãi đến khi vật lý học chuyển sang thời kỳ hiện đại, với đối tượng nghiên cứu là thế giới vi mô, có cấu trúc và quy luật vận động khác hẳn so với thế giới vĩ mô, lúc này hệ thống các khái niệm của vật lý học cổ điển mới sụp đổ hoàn toàn, cùng với quan điểm cơ học và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Từ đây, quan điểm biện chứng về trạng thái tồn tại của thế giới và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng là thống nhất, và chính trên ý nghĩa này mà V.I.Lênin nói rằng vật lý học hiện đại đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tất nhiên, không nên hiểu sự sụp đổ của hệ thống các khái niệm của vật lý học cổ điển, có nghĩa là sự ra đời của một hệ thống các khái niệm mới tách rời hoàn toàn các khái niệm cũ. Ngoài những khái niệm mới được xây dựng do đặc điểm riêng của thế giới vi mô, nhiều tên gọi các khái niệm trong hệ thống cũ vẫn được duy trì, với điều kiện là cần hiểu được nội hàm của chúng trên cơ sở của lôgic biện chứng. Mặt khác, cần nói ngay rằng, trong vật lý học hiện đại, nói chung quan điểm về trạng thái và quan điểm tiếp cận nhận thức toàn bộ - biện chứng là thống nhất, nhưng điều đó không có nghĩa là trong vật lý học hiện đại nói riêng hay trong khoa học nói chung không còn chỗ nào cho quan điểm tiếp cận nhận thức trừu tượng – siêu hình. Chính quan điểm về trạng thái biện chứng đòi hỏi phải có sự kết hợp của hai quan điểm tiếp cận nhận thức siêu hình và biện chứng, bởi vì trong sự vận động tuyệt đối của thế giới bao giờ cũng có sự đứng im tương đối, và ở những nơi đó, quan điểm tiếp cận nhận thức trừu tượng – siêu hình vẫn có giá trị. Chẳng hạn, trong thuyết tương đối hẹp, vẫn áp dụng quan niệm về không gian đồng chất và đẳng hướng, cơ học lượng tử phi tương đối tính vẫn sử dụng khái niệm không gian và thời gian tuyệt đối, tách rời nhau, … các quan niệm và khái niệm nói trên là của vật lý học cổ điển. Tóm lại, khi nói về phép siêu hình và phép biện chứng, với tính cách là những quan điểm triết học, chúng ta cần phân biệt hai mặt: mặt nói về cách xem xét trạng thái tồn tại của thế giới, vắn tắt là quan điểm về trạng thái, và mặt nói về cách tiếp cận nhận thức, vắn tắt là quan điểm về tiếp cận nhận thức. Ở mặt thứ nhất, hai phép siêu hình và biện chứng là hoàn toàn đối lập, còn ở mặt thứ hai, hai mặt này nói lên hai cực bao gồm trong đó các mức độ trừu tượng hóa trong quá trình phản ánh đối tượng nhận thức. Với cách hiểu nói trên, chúng ta có thể giải thích được các đặc điểm trong lịch sử phát triển của cuộc đấu tranh triết học trong KHTN. Khi mà khoa học ngày càng đạt đến tầm cao mới thì phép biện chứng càng thể hiện vai trò to lớn của nó, đúng như Ph.Ăngghen đã nói: “là phương pháp tư duy duy nhất, cao nhất và thích hợp nhất với giai đoạn phát triển hiện nay của KHTN”. III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHTN Ngay từ thời cổ đại, khi triết học còn đang bao gồm cả các khoa học – nền triết học tự nhiên – thì trong sự phát triển nhận thức của con người đã có sự tác động qua lại giữa các tư tưởng triết học và việc nhận thức các đối tượng cụ thể, tức là giữa cái chung và cái riêng. Ph.Ăngghen dẫn lời của Arixtốt nói rằng những triết gia đầu tiên đã khẳng định như sau: “Cái mà từ đó mọi vật được tạo thành, mà từ đó mọi vật xuất hiện như từ một cái đầu tiên, và trở về đó với tư cách là cái cuối cùng … thì luôn luôn vẫn y nguyên như thế với tính cách là bản thể và chỉ thay đổi trong những quy định của nó, cái đó là nguyên tố là căn nguyên của mọi vật …. Chính vì thế mà họ cho rằng không có cái nào sinh ra và mất đi, vì rằng giới tự nhiên ấy được bảo toàn mãi mãi”. Và Ph.Ăngghen nhận xét: “Như thế chủ nghĩa duy vật tự nhiên và tự phát đã hiện ra hoàn toàn rõ nét, chủ nghĩa duy vật này trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nó, coi một cách hoàn toàn tự nhiên, tính thống nhất trong sự muôn vẻ vô tận của những hiện tượng tự nhiên là một điều dĩ nhiên và tìm sự thống nhất ấy ở một vật hữu hình nào đó, một vật đặc biệt nào đó, như Talét, ở nước vậy”. Và chúng ta đã biết ở các nhà triết học cổ đại khác, vật hữu hình ấy lại là không khí (Anaximen), là lửa (Hêracơlít), là cả bốn yếu tố đất, nước, lửa, không khí (Arixtốt). Đối với một số nhà triết học khác, thì đó không phải là vật hữu hình, như Pitago là “con số”, Anaximanđơrơ là “cái vô hạn”, Lơxip và Đêmôcrít là “nguyên tử”. Trong các triết gia đó, chưa ai giải thích nguồn gốc của vận động, và chỉ có Pitago là người đầu tiên nêu ra ý tưởng về tính quy luật của vũ trụ và Hêracơlít là người đầu tiên nêu lên ý tưởng về tính quy luật của sự vận động là phép biện chứng; và Arixtốt đã vận dụng phép biện chứng – mặc dù ở những lúc khác, ông lại phản đối phép biện chứng – để nêu lên đặc tính của vật chất ban đầu là hai cặp tính đối lập nhau: nóng – lạnh, khô - ẩm, và cho rằng tất cả những sự biến đổi trong thế giới là do kêt quả của sự đấu tranh của các đặc tính đối kháng ban đầu đó. Nhưng do trình độ hiểu biết về tự nhiên hồi đó còn ít ỏi và rời rạc, mang tính trực quan là chính, chưa cho phép tiến hành những khái quát khoa học dưới sự chỉ đạo của tư tưởng triết học, để rút ra những yếu tố vật lý có tính chất là nguyên lý lý luận, liên kết thành hệ thống – tức là tạo ra một bức tranh khoa học thống nhất về thế giới – cho phép giải thích được đúng đắn sự đa dạng của các hiện tượng trong tự nhiên và tiên đoán những diễn biến trong tương lai. Chính vì thế mà trong một thời gian dài, mặc dù triết học đã có những tư tưởng thiên tài, nhưng chưa đem lại kết quả cụ thể nào cho khoa học, như Ph.Ăngghen đã nhận xét: “KHTN hiện đại, mà cũng chỉ có KHTN hiện đại, mới đạt đến một trình độ phát triển khoa học, có hệ thống và toàn diện, ngược lại với những trực giác thiên tài của những người thời cổ trong triết học về tự nhiên và với những phát hiện của người Arập, cực kỳ quan trọng, nhưng có tính rời rạc và phần nhiều đã biến mất, không mang lại kết quả gì”. Những điều vừa trình bày ở trên chỉ ra mối quan hệ đầu tiên giữa triết học và các KHTN: cả triết học và khoa học đều phải nhận thức cái phổ biến, cái bản chất, nhưng sự khác nhau là: một bên nhiệm vụ nhận thức là cái chung ở mức trừu tượng và khái quát cao nhất, đưa đến những quan điểm có ý nghĩa tiên đề, còn một bên là nhận thức cái riêng, cái riêng này cũng trừu tượng và khái quát nhưng ở mức thấp hơn, và có biểu hiện ở những đối tượng vật chất có mức trừu tượng nhiều hay ít tùy theo trình độ phát triển của khoa học từng thời kỳ lịch sử. Cái riêng này, về sau – từ thời cận đại – khi khoa học đã phát triển đến trình độ cao và tách khỏi triết học, được gọi là bức tranh KHTN về thế giới. Mỗi nghành khoa học cố gắng vạch ra bức tranh riêng cho nghành mình, coi đó là sự liên kết những quan điểm, những nguyên lý phản ánh những yếu tố phổ biến, bản chất tồn tại trong tất cả các hiện tượng muôn màu, muôn vẻ thuộc đối tượng nghiên cứu của mình. Mọi nghành khoa học đều phải có hệ thống các khái niệm, trên cơ sở đó xây dựng lý thuyết của mình, và sau khi được kiểm nghiệm, sẽ được dùng để giải thích các hiện tượng được quan sát, hoặc tiên đoán những kết quả sẽ xuất hiện trong những hiện tượng mới. Trong các công việc này – xây dựng các khái niệm và các lý thuyết – các nhà khoa học dù có ý thức hay không, luôn luôn phải giải quyết hai vấn đề, thuộc về đối tượng nhận thức hay về sự nhận thức đối tượng ấy. Triết học tác động lên khoa học chính là qua hai vấn đề đó, thông qua các quan điểm của mình, xoay quanh vấn đề cơ bản của triết học (quan hệ giữa vật chất và ý thức) với hai mặt của nó và quan điểm về trạng thái tồn tại của thế giới và cách tiếp cận nhận thức (biện chứng hay siêu hình). Các nhà khoa học không có lập trường triết học rõ ràng, dứt khoát, thường hay dao động xung quanh các quan điểm nói trên, ngay đối vơi các nhà bác học lớn như A.Anhstanh, N.Bo, …. Do tinh thần cơ bản của khoa học, đa số các nhà khoa học có lập trường duy vật, có thể có ý thức hay tự phát, mức độ triệt để nhiều hay ít, nhưng trong giai đoạn cổ điển (từ cuối thế kỷ XIX trở về trước), do đặc điểm của đối tượng nghiên cứu là thế giới vĩ mô, phương pháp nhận thức cơ bản của họ là siêu hình. Chính phương pháp nhận thức siêu hình đã giúp các nhà khoa học cổ điển khái quát xây dựng các bức tranh khoa học về thế giới, cũng có tính siêu hình; các bức tranh này, một mặt là cơ sở để phát triển khoa học, nhưng mặt khác, do được coi là cuối cùng, bất biến, lại gây khó khăn cho sự phát triển của khoa học, khi phát hiện những hiện tượng mới không thể đưa vào khuôn khổ của bức tranh đã được xây dựng. Tình hình này đặc biệt nghiêm trọng khi đối tượng nhận thức chuyển từ vĩ mô sang vi mô. Ở các nhà khoa học có lập trường không triệt để, dễ dàng có sự chuyển biến về thế giới quan từ duy vật sang duy tâm, khi có những hiện tượng mới mà với phương pháp nhận thức siêu hình, họ không thể nào giải thích được, Thuyết bất khả tri cũng xuất hiện từ đó. Nếu trong vật lý học cổ điển, do các đối tượng nghiên cứu nói chung là trực quan được, và đều ở trong cùng một tầng cấu trúc vĩ mô, nên đã có tác dụng nuôi dưỡng lập trường duy vật ở các nhà khoa học, thì những đặc điểm vừa nêu trên của thế giới vi mô lại tạo điều kiện khách quan cho sự xuất hiện lập trường duy tâm ở các nhà nghiên cứu. Lập trường này lại được củng cố khi quan điểm siêu hình, vốn là cơ sở của nhận thức của vật lý học cổ điển và đã ăn sâu trong ý thức của nhiều nhà khoa học, bị phá sản trước nhiều hiện tượng vật lý mới mà họ không thể giải thích được vì không hiểu phép biện chứng. Với đặc điểm của thế giới vi mô, các nhà khoa học phải dựa vào kết quả quan sát, đo lường vĩ mô để xây dựng các lý thuyết được hình thức hóa rất cao và sử dụng công cụ toán học rất trừu tượng. Nhưng có một điều mà họ ít chú ý là chính các lý thuyết toán học mà các nhà khoa học đã sử dụng đã ẩn dấu trong đó phép biện chứng, và chính nhờ đó mà các lý thuyết, sau khi được thực nghiệm xác nhận, đã có thể phản ánh đúng đắn sự diễn biến của các đối tượng vi mô tồn tại khách quan. Khoa học hiện đại đòi hỏi một phương pháp nhận thức mới ra đời – phương pháp biện chứng – thay thế cho phương pháp nhận thức cũ – phương pháp siêu hình, đúng như nhận định của V.I.Lênin: “vật lý học hiện đại đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và điều tất yếu để vật lý học thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng – khi chuyển từ vật lý học cổ điển sang vật lý học hiện đại – là chủ nghĩa duy vật biện chứng phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. Như vậy trong quá trình phát triển của mình, KHTN từ thời cận đại đến nay đã trải qua hai thời kỳ với hai cơ sở triết học: thời kỳ cổ điển là chủ nghĩa duy vật siêu hình và thời kỳ hiện đại là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những thuộc tính và những quy luật chung nhất của các hệ thống vật chất khác nhau của tự nhiên và xã hội, cũng như của các hệ thống nhận thức thế giới của con người. Về thực chất, chính chủ nghĩa duy vật biện chứng là một lý thuyết triết học chung nhất của các hệ thống vật chất và tinh thần. Nó đem lại một bức tranh nhất định về thế giới xem như vật chất đang vận động (phương diện thế giới quan) và đông thời nó cũng là phương pháp luận của nhận thức khoa học (phương diện logic – nhận thức luận). Ở một mức độ nào đó, các thuộc tính và các quy luật phổ biến của các hệ thống cũng được nghiên cứu trong các KHTN cơ bản – những khoa học đưa thông tin về các biểu hiện cụ thể của các thuộc tính và các quy luật này. Nhưng mỗi bộ môn khoa học cụ thể chỉ nghiên cứu những hình thức vật chất và vận động nhất định hay những bộ phận hữu hạn của thế giới. Khác với cái đó, triết học Mác – Lênin cố gắng vạch ra một cái chung, ổn định và bất biến trong vô số những thuộc tính và những quy luật riêng lẻ cụ thể và điều đó dẫn đến sự nhận thức những thuộc tính và quy luật phổ biến của tồn tại của vật chất. Chẳng hạn, trong KHTN, người ta đã xác định hàng loạt những quy luật đặc trưng cho mối quan hệ qua lại của các thuộc tính và các khuynh hướng biến đổi đối lập của các khách thể vật chất: các quy luật tương tác giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa hạt và phản hạt, giữa hút và đẩy trong kết cấu của vật thể, giữa kết hợp và phân ly của các nguyên tử trong phân tử, các quy luật cân bằng động học trong các hệ thống, …. Mỗi quy luật này đều tác động trong những phạm vi cục bộ. Nhưng trong kết cấu của tất cả các quy luật ấy, có một cái gì đó thống nhất, bất biến. Trên cơ sở khái quát hóa nội dung thống nhất này mà hình thành quy luật biện chứng về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một quy luật có giá trị phổ biến. Cũng tương tự như vậy, trong các KHTN và cả khoa học xã hội, người ta đã thiết lập được rất nhiều quy luật riêng lẻ biểu thị những thay đổi về cơ cấu, chất lượng của các vật do sự thay đổi những đặc trưng về lượng của chúng gây nên. Nội dung thống nhất của vô số các quy luật này được biểu thị trong quy luật phổ biến về sự chuyển hóa qua lại giữa các biến đổi về chất lượng và số lượng. Cũng đúng như vậy, nguyên lý triết học về nhân quả biểu hiện cái chung, cái thống nhất và ổn định có trong kết cấu của tất cả các quy luật về sự phát sinh và phát triển của một số hiện tượng này bởi các hiện tượng khác. Các quy luật phổ biến của tồn tại đã được nhận thức sẽ trở thành những nguyên lý phương pháp luận của sự nghiên cứu trong KHTN. Chẳng hạn, nguyên lý triết học về sự bảo toàn vật chất và vận động là cơ sở của tất cả các quy luật riêng về sự bảo toàn những thuộc tính khác nhau của vật chất được diễn đạt trong các KHTN. Những quy luật bảo toàn này đóng vai trò là những nguyên lý gợi mở quan trọng nhất khi nghiên cứu các hiện tượng mới và khi đánh giá giá trị khách quan khả dĩ của các giả thuyết mới được đề xuất. Chẳng hạn, nếu trong lý thuyết các hạt cơ bản, người ta đề ra những mô hình biến đổi của các hạt, trong đó giả thiết rằng, các quy luật bảo toàn bị vi phạm, thì có thể nghi ngờ sự đúng đắn của các mô hình ấy. Trên cơ sở của các nguyên lý bảo toàn, người ta đã tiên đoán được sự tồn tại của nơtrinô và một số biến dạng của mêdôn. Cũng như vậy, nguyên lý nhân quả đóng vai trò gợi mở, điều chỉnh quan trọng khi nghiên cứu các hình thức tương tác của các khách thể vật chất khác nhau và khi xây dựng các lý thuyết khoa học. Các giả thuyết dựa trên giả thiết về sự vi phạm nguyên lý nhân quả về su này là không đúng ngay cả theo quan điểm của bản thân KHTN. Trong thế giới, không có hiện tượng nào mà lại không có nguyên nhân tự nhiên của mình hay không gây nên nhũng hệ quả nào đấy – những kết quả được chúng sản sinh ra. Nguyên lý nhân quả đã được khái quát hóa không chỉ tính đến các quá trình quyết định luận đơn trị, mà còn tính đến tất cả các hình thức của các quá trình xác suất, các biến đổi ngẫu nhiên, sự xuất hiện của các khả năng mới trong phát triển. Học thuyết duy vật biện chứng về các thuộc tính và các quy luật cơ bản của các hệ thống vật chất khác nhau thực hiện chức năng tổng hợp nhất định, thúc đấy sự sát nhập tri thức khoa học. Khuynh hướng tiến tới sự sát nhập tri thức nằm trong mối tác động qua lại với khuynh hướng phân nghạch ngày càng sâu sắc của khoa học. Nó xuất phát từ các quy luật phát triển nội tại của các lý thuyết khoa học. Sau khi lý thuyết đạt đến sự mô tả thỏa đáng các hiện tượng được nghiên cứu và về cơ bản đã được xác nhận trong thực tiễn thì bắt đầu thời kỳ xây dựng căn cứ cho những nguyên lý xuất phát của nó. Việc xây dựng căn cứ này bao gồm sự giải thích nhân quả của chúng, sự giải đáp những vấn đề như vì sao các nguyên lý ấy lại có chính nội dung như thế chứ không phải nội dung nào khác, phạm vi áp dụng của chúng đến đâu, …. Một sự giải thích như vậy không thể thực hiện được trên cơ sở của bản thân lý thuyết đó, trên cơ sở nguyên lý vốn có của nó. Để đạt được điều ấy cần vượt ra ngoài giới hạn của nó và chuyển sang một hệ thống tri thức phổ biến hơn. Bước chuyển này không thể thực hiện được bằng các phương tiện lôgic thuần túy. Muốn đạt được điều đó, trước hết cần có các tài liệu thực nghiệm mới và có sự thuyết giải chúng về mặt lý luận. Đến lượt mình, trong lý thuyết mới, một lý thuyết phổ biến hơn, nhất định lại sẽ xuất hiện những luận điểm không thể giải thích được theo quan điểm của lôgic nội tại và nội dung của lý thuyết đó và đòi hỏi phải có một tri thức phổ biến hơn nữa để xây dựng căn cứ cho mình. Như vậy, sự cần thiết xây dựng căn cứ cho lý thuyết và cho sự giải thích nhân quả các luận điểm của nó gây nên sự chuyển sang lý thuyết ngày càng phổ biến hơn, gây nên sự sát nhập tri thức khoa học. Lý thuyết mới, lý thuyết phổ biến hơn, không phủ nhận hoàn toàn lý thuyết cũ, nếu như lý thuyết cũ đó đã được xác nhận về cơ bản trong thực tiễn. Nó chỉ loại trừ những luận điểm không đúng của lý thuyết cũ và hạn chế phạm vi áp dụng. Sự phát triển của các lý thuyết hoàn toàn tuân theo và phù hợp vói học thuyết của Lênin về phép biện chứng của chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Nếu thiếu quan điểm về phương pháp luận đúng đắn đối với các vấn đề về mối liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học thì những thành tựu lớn lớn lao của một nghành khoa học này có thể sinh ra những xu hướng không những không thúc đẩy sự phát triển của những nghành khác mà thậm chí còn cản trở chúng. Phép biện chứng dạy rằng do kết quả của những thay đổi về chất sẽ xuất hiện những tính quy luật mới mà không thể đồng nhất với những quy luật của các hình thái vận động đơn giản hơn hoặc không thể quy về chúng. Không tính đến tính độc đáo về chất của các hiện tượng và những tính quy luật đặc thù của chúng thì không thể có được nhận thức khoa học Trí tuệ con người luôn luôn thấy cần phải tổng hợp các tri thức, nhu cầu này phản ánh bản thân sự thống nhất vật chất khách quan của thế giới. Nếu nói về những nguồn gốc nhận thức luận thì có thể nói triết học đã sinh ra từ nhu cầu này. Sở dĩ các khoa học ngày càng quyện vào nhau, đó là do KHTN ngày càng đi sâu vào phép biện chứng của tự nhiên. Nhận thức khoa học là sự phản ánh những đối tượng tồn tại khách quan cùng với tất cả những tính chất và những quy luật vốn có của nó. Mối liên hệ lẫn nhau giữa các lĩnh vực khác nhau của KHTN hiện đại là sự biểu hiện của những mối liên hệ khách quan của giới tự nhiên. Sự thâm nhập lẫn nhau của các KHTN hiện đại chứng tỏ rằng trong giới tự nhiên, trong sơ sở thống nhất của mình, là một sự thống nhất của cái đa dạng: không một lĩnh vực nào của nó lại tách khỏi những lĩnh vực khác, mà nằm trong mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau, kết hợp với nhau, bằng trăm nghìn những sợi dây khác nhau, những sự quá độ và chuyển hóa lẫn nhau. Điều này thể hiện nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng trong triết học Mác – Lênin. Trong lịch sử KHTN, có hai xu hướng trực tiếp đối lập nhau và tưởng chừng như bài xích lẫn nhau: một xu hướng muốn chia nhỏ và phân nghành các khoa học, ngược lại, xu hướng khác lại muốn hợp nhất các khoa học đã bị phân chia vào một hệ thống chung của tri thức khoa học, tức là sụ hợp nghành các khoa học. Lúc đầu cả hai xu hướng tác động độc lập vơi nhau, mặc dầu trong một chừng mực nhất định có chế ước lẫn nhau. Đến những giai đoạn khác nhau của sự tiến bộ khoa học khi thì xu hướng này chiếm ưu thế khi thì xu hướng kia chiếm ưu thế. Trong khoa học tự nhiên hiện đại, ta thấy chúng thống nhất hữu cơ với nhau: sự phân nghành và phân chia khoa học càng đi xa bao nhiêu thì bản thân KHTN càng trở nên gắn liền, hoàn chỉnh và vững chắc bấy nhiêu. Sở dĩ như vậy là vì hiện nay các KHTN mới nảy sinh không những không làm sâu sắc thêm sự phân chia giữa các khoa học như trước đây đã xảy ra, mà ngược lại, loại bỏ được sự tách biệt nhau đã xảy ra từ trước. Ta có thể thấy được qua sự xuất hiện của một loạt các nghành KHTN mới, thể hiện mối liên hệ lẫn nhau giữa các nghành KHTN cũ như: nghành Hóa – Lý, Hóa – Sinh, Hóa – Địa chất, Hóa – Sinh – Địa, …. Như vậy phép biện chứng của sự phát triển của nhận thức khoa học thể hiện dưới dạng của sự chế ước lẫn nhau giữa hai xu hướng đối lập nhau – phân nghành và hợp nghành của tri thức. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của KHTN hiện đại. Ta đã biết, từ lâu, toán học là phương tiện mô tả hình thức và khái quát các chân lý khoa học. Đồng thời luôn luôn nảy sinh sự đòi hỏi một khái quát rộng rãi hơn. Vì vậy, cùng với lôgic hình thức và toán học, những khái niệm triết học đã phát triển. Và triết học đặc biệt là triết học duy vật, đã đảm nhiệm vai trò tổng hợp như vậy. Toán học đã được chia thành một loạt nghành nhỏ, như đại số, hình học, số học, …. Lôgic học cũng vậy, có cả một loạt nhánh nhỏ: lôgic học nhiều nghĩa, lôgic học bình thái, lôgic học dạng thái, … Thì ra, ngay giữa bản thân các nghành và các bộ môn khái quát cũng đòi hỏi một sự khái quát và sự tổng hợp, và không một cái gì có thể đem lại sự khái quát này ngoài việc nghiên cứu những vấn đề triết học của KHTN và cả khoa học xã hội, nghiên cứu phép biện chứng của giới tự nhiên, nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng. Và điều chủ yếu nhất là ở chỗ, những khái quát toán học, lôgic học, điều khiển học không thể đem lại cách giải quyết cho những vấn đề như vấn đề chủ thể và khách thể, con người và tự nhiên, tự nhiên và xã hội, lý luận và thực tiễn và cả một loạt những vấn đề về phương pháp luận chung – những vấn đề này do chính triết học, chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu. Nếu không có sự giải quyết các vấn đề triết học chung này thì bộ máy lôgic và toán học chủ yếu chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật mà thôi. Vì thế, việc nghiên cứu các phạm trù triết học chung và các quy luật cũng giúp vào sự hiểu biết đúng đắn và sự phát triển của toàn bộ bộ máy khái quát của khoa học tự nhiên hiện đại, kể cả bộ máy của từng khoa học. Triết học không nhận giải quyết những vấn đề chung của KHTN cụ thể nào, nhưng triết học không thể phát triển được nếu không liên hệ với KHTN và bản thân KHTN cũng sẽ mất mát nhiều thứ nếu mối liên minh của nó với triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng bị yếu đi. Lênin đã từng nhiều lần nhấn mạnh rằng vấn đề cơ bản của bất kỳ triết học nào cũng là vấn đề về quan hệ giữa tồn tại và ý thức. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta cần quy đối tượng của triết học vào vấn đề cơ bản của nó. Lênin nói rằng quan hệ của ý thức đối với vật chất là vấn đề cơ bản của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMoi_quan_he_giua_triet_hoc_va_KHtn.doc
  • pdfMoi_quan_he_giua_triet_hoc_va_KHtn.pdf