Tiểu luận Một số vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

PHỤ LỤC

A.BẢN CHẤT KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

B.NỘI DUNG

I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

1.1. Quan niệm về KTTT định hướng XHCN

1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT định hướng XHCN

II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

2.1. Mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam

2.2. Hình thức sở hữu trong nền KTTT

2.3. Tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội

2.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế

2.5. Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập

III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KTTT

3.1. Thực trạng KTTT ở Việt Nam

3.2. Giải pháp cơ bản để phát triển KTTT định hướng XHCN

C. KẾT LUẬN

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT và CNXH mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kì quá độ ở Việt Nam. Đây là một kiểu KTTTmới trong lịch sử phát triển của KTTT. Cũng có thể nói KTTT là cái phổ biến còn KTTT định hướng XHCN là cái đặc thù của Việt Nam. Nói KTTT định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế của nước ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu, bao cấp như trước nhưng cũng không phải là nền KTTT tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải KTTT TBCN cũng chưa hoàn toàn KTTT XHCN. Bởi vì Việt Nam còn đang ở trong thời kì quá độ lên CNXH còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và mới, vừa có vừa chưa đủ các yếu tố của CNXH . +Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ rõ: KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những qui luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH thể hiện trên cả 3 mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối. Nói cách khác, KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. +Nó mang những đặc trưng chung của KTTT: -Nền kinh tế vận hành theo những quy luật vốn có của KTTTnhư quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. -KTTT là nền kinh tế mở. -Tính tự chủ cao của các chủ thể kinh tế mà sự hình thành giá cả thị trường do thị trường quyết định. Trong KTTT cạnh tranh là tất yếu. -Nếu là kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa, các chính sách kinh tế. -Ngoài ra KTTT định hướng XHCN còn có cái đặc thù phát triển theo định hướng XHCN với thành phần kinh tế nhà nước, sự quản lý vĩ mô của nhà nước. 2.2. Hình thức sở hữu trong nền KTTT định hướng XHCN: Nền KTTT định hướng XHCNcó nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nếu KTTTTB cũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu trong đó quan hệ sở hữu tư nhân làm nền tảng còn KTTTVN cũng dựa trên nhiều quan hệ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản ). Gắn liền với nó là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH. Vì vậy phát triển nền KTTTnhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi tiềm lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, do đó không chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền KTTT rộng lớn. Trong nền KTTT nhiều thành phần ở nước ta kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. 2.3. Tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền thực hiện công bằng xã hội trong nền KTTT định hướng XHCN: Tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với việc thực hiện công bằng xã hội trong mỗi bước phát triển, trong đó tăng trưởng và phát triển là điều kiện tiền đề công bằng xã hội là mục tiêu, đích và khi thực hiện nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong KTTT TBCN khi mâu thuẫn xã hội đã trở nên gay gắt thì nhà nước tư bản cũng có những chính sách để thực thi giải quyết mâu thuẫn xã hội như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho người tàn tật, người già cô đơn. Thực hiện công bằng xã hội phải ngăn chặn việc phân hóa xã hội thành hai cực giàu và nghèo. Năm 19991xóa đói giảm nghèo, năm 2004 còn 10% xóa hơn 2500 hộ nghèo. Phân phối công bằng phải tạo ra điều kiện cho người lao động thực hiện khả năng lao động của mình. 2.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế: Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước: Nền KTTT định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh... giá cả do thị trường quyết định. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “ những thất bại của thị trường.” Vai trò quản lý của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện KTTT. Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch và thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hóa là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều tiết có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế còn cơ chế thị trường là sự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN. Song cơ chế thị trường cũng có khuyết tật của nó. Khuyết tật cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát nên có thể đưa đến sự mất cân đối gây tổn hại cho nền kinh tế. Vì thế, cần có sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong cơ chế vận hành nền kinh tế. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết của kế hoạch. Sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Ở tầm vi mô thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung-cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất: sản xuất ra sản phẩm gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Còn ở tầm vĩ mô mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định song kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình hình biến động của thị trường. Thoát ly khỏi thị trường kế hoạch hóa vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch hóa vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn tổng thể của nền kinh tế như tổng cung-tổng cầu, sản xuất-tiêu dùng, hàng hóa-tiền tệ. 2.5. Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập : Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu thế hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Trong điều kiện ngày nay, sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại thúc đẩy sự hợp tác và phân công quốc tế, xu hướng hội nhập hay xu hướng toàn cầu hóa . Vì vậy, mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển KTTT hiện đại theo kiểu rút ngắn. III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 3.1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam. Qua những năm đổi mới nước ta đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung qua liêu, bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của nhà nước mà vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân. Tuy vậy, nền KTTT ở nước ta mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, ở trình độ kém phát triển thể hiện ở những đặc điểm sau : 3.1.1. Trình độ phát triển nền KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Đó là do các nguyên nhân: +Sự phân công lao động–cơ sở của KTTT chưa phát triển. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuẩt nhỏ với gần 80% dân cư sống ở nông thôn, trên 70% số người đang trong độ tuổi lao động làm nghề nông,sản xuất lương thực vẫn là ngành sản xuất chính chiếm đại bộ phận diện tích đất canh tác, tỷ suất hàng hóa lương thực thấp. Chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, công nghiệp chế biến nông sản còn nhỏ yếu, ở vùng núi và vùng sâu vẫn còn kinh tế tự nhiên. Nông nghiệp sử dụng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuẩt khoảng 26% GDP. +Cơ sở vật chẩt kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. TheoUNDP Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới, năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới. +Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến cảng,hệ thống thông tin liên lạc ... còn lạc hậu, kém phát triển ( mật độ đường giao thông /km bằng 1% với mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới là 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hóa sản xuất phát huy thế mạnh. +Khả năng cạnh tranh của hàng hóa yếu. Do cơ sở vật chất và kỹ thuật lạc hậu nên năng suất lao động thấp do đó khối lượng hàng hóa nhỏ bé, chủng loại hàng hóa còn nghèo nàn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu. So ngay khu vực con tôm giá cả 3 chìm 7 nổi, gạo giá thua Thái Lan mất 25% giá, cà phê có thời kỳ mất giá nặng. 3.1.2. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. +Thị trường hàng hóa-dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực: hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường khiến người tiêu dùng giảm lòng tin hàng nội vì khó phân biệt được hàng thật hàng giả. +Thị trường hàng hóa sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuẩt hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về lao động lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. +Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két, dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Ở Hà Nội trong 2 năm 1996-1997 các ngân hàng huy động được 39,575 tỷ đồng nhưng chỉ đầu tư được 28,367 tỷ đồng đạt 71,6% tổng số vốn đã có. + Năm 2000 mới mở thị trường chứng khoán còn non yếu, có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham ra thị trường này. 3.1.3. Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế-kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác: Toàn cầu hóa và khu vực hóa về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hểt sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan nên không đặt vấn đề tham ra hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hóa và toàn cầu hóa, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân định hướng đi nên CNXH. 3.1.4. Quản lý nhà nước về kinh tế–xã hội còn yếu kém: Sau gần 20 năm đổi mới nhất là 5 năm gần đây nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam từng bước được hình thành. Qua đó sự quản lý của nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ là bước đầu, nhất là sự quản lý của nhà nước về kinh tế còn nhiều yếu kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý còn thấp. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận đinh về vấn đề này như sau “hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.” Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng quản lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, cải cách hành chính còn chậm và chưa kiên quyết. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đến sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất cập, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc. Do đó việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước đối với KTTT ở Việt Nam vẫn đang là một yêu cầu khách quan và cấp bách. 3.2. Các giải pháp cơ bản phát triển nền kinh tế Việt Nam. 3.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần: Trước khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xóa bỏ KTTT chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng. Không nên có thái độ thành kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. + Kinh tế nhà nước: Phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng việc thực hiện mục tiêu tổng quát và các nhiệm vụ cụ thể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 tập trung thực hiện các nhóm mục tiêu sau đây: - Tập trung cho mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Tạo bước chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, vượt qua tình trạng kém phát triển, thu nhập thấp( GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt khoảng 1000 USD). - Phát triển nhanh các ngành kinh tế, tạo ra bước đột phá về chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao rõ rệt hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ, bội chi ngân sách và lạm phát và nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. - Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, cải thiện một bước đáng kể trình độ công nghệ trong nền kinh tế quốc dân. - Phát triển mạnh mẽ kinh tế đối ngoại: chủ động và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập và trao đổi ngoại thương, tiếp tục tạo môi trường hấp dẫn và ổn định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Tiến tới xóa bỏ sự phân cách về chính sách và pháp luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Tăng cường hỗ trợ và quản lý sau cấp giấy phép, tạo điều kiện cho các dự án đã được cấp phép triển khai thực hiện có hiệu quả. Thực hiện cổ phần hóa những doanh nghiệp có điều kiện. Triển khai từng bước vững chắc các hình thức đầu tư gián tiếp của nước ngoài ở nước ta, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp, doanh nghiệp thực sự cạch tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi, thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. + Kinh tế tập thể: Gồm các hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên doanh rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường,xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. + Kinh tế cá thể tiểu chủ: Cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. + Kinh tế tư bản tư nhân: Nghị quyết trung ương 5( khóa IX) khẳng định: “ Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.” Trên cơ sở đường lối của Đảng nhà nước ta đã và đang rà soát, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện nhiều đạo luật quan trọng có liên quan đến vấn đề sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Đồng thời tiếp tục ban hành những đạo luật và chính sách mới như: chính sách đất đai, tín dụng, thuế, khoa học công nghệ, thị trường... xóa bỏ hàng trăm giấy phép “con” nhằm tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang đứng trước những thách thức hết sức gay gắt nhưng đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng. +Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại tạo thêm nhiều việc làm. +Kinh tế tư bản nhà nước: Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. 3.2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học- công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Vì vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa, phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội. Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định, cho nên muốn mở rộng phân công lao động xã hội, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học và công nghệ; ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Cùng với việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước, cũng như ở từng vùng, từng địa phương; hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. 3.2.3. Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp: + Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển. Nó là điều kiện để các nhà kinh doanh trong nước và ngoài nước yên tâm đầu tư. Cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. +Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế để tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất và đồng bộ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phát huy cao nhất mặt tích cực và hạn chế tối đa những khuyết tật của KTTT. Hệ thống pháp luật này là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý nền kinh tế. -Trong thời gian qua, nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế. Tuy nhiên, đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ, thường phải sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung. Vì vậy, trước mắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111149.doc
Tài liệu liên quan