Tiểu luận Một số vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 5

Chương 1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 6

1.1 Lịch sử hình thành ngân hàng thương mại 6

1.2 Khái niệm 6

1.3 Phân loại ngân hàng thương mại 7

1.4.1 Cơ cấu tổ chức: 8

1.4.2 Mạng lưới hoạt động: 9

1.5Chức năng của ngân hàng thương mại 10

1.5.1 Chức năng trung gian tín dụng: 10

1.5.2 Chức năng trung gian thanh toán: 10

1.5.3 Chức năng tạo tiền: 10

1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại 11

1.6.1 Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ 11

1.6.2 Sự gia tăng cạnh tranh: 11

1.6.3 Sự gia tăng chi phí vốn: 12

1.6.4 Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: 12

1.6.5 Cách mạng trong công nghệ ngân hàng: 12

Chương 2. NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 13

2.1 Nghiệp vụ tài sản Nợ - Huy động vốn 13

2.1.1 Vốn của ngân hàng 13

2.1.2 Vốn tiền gửi 13

2.1.3 Vốn đi vay 16

2.1.4 Các nguồn vốn khác 17

2.2 Nghiệp vụ tài sản có – sử dụng vốn 17

2.2.1 Nghiệp vụ ngân quỹ 17

2.2.2 Nghiệp vụ cho vay 17

2.2.3 Nghiệp vụ đầu tư 19

2.2.4 Tài sản có khác 19

2.3 Nghiệp vụ ngoại bảng (nghiệp vụ trung gian) 19

Chương 3. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI 21

3.1 Sơ lược về ngân hàng thương mại ở Việt Nam 21

3.2 Hoạt động của một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam 22

3.3 Tác động của các ngân hàng thương mại đến kinh tế Việt Nam 26

Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN NHTM VIỆT NAM 29

4.1. Những vấn đề tồn tại hạn chế sự phát triển của NHTM 29

4.1.1. Về quản lí mô hình hoạt động 29

4.1.2. Về việc hoàn thiện văn bản pháp lí: 30

4.1.3. Về chất lượng hoạt động của các tổ chức 30

4.2. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của NHTM Việt Nam 31

4.2.1. Giải pháp quản lí mô hình hoạt động 31

4.2.2. Hoàn thiên tính pháp lí cho sự phát triển 33

4.2.3. Nâng cao qui mô và chất lượng hoạt động của NHTM Việt Nam 33

KẾT LUẬN 34

TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

PHỤ LỤC 36

 

 

doc54 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề còn tồn tại và một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cổ phiếu…), góp vốn thành lập doanh nghiệp để đầu tư các dự án BIDV đã chủ động xây dựng Đề án cổ phần hóa BIDV, trình và được Chính phủ chấp thuận. Nỗ lực nâng cao năng lực tài chính bằng việc phát hành 3.200 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2, minh bạch hóa hoạt động kinh doanh với việc thực hiện và công bố kết quả kiểm toán quốc tế, thực hiện định hạng tín nhiệm và đạt mức trần quốc gia do Moody’s đánh giá. Kế hoạch hoạt động của BIDV năm 2011 được đặt ra như sau: Huy động vốn năm 2011 phấn đấu tăng trưởng 23% (huy động thêm khoảng 61.500 tỷ đồng), trong đó tăng trưởng huy động vốn VND là 25%, ngoại tệ là 8%, tăng trưởng tín dụng đặt ra năm 2011 của BIDV không quá 19% (doanh số cho vay phát sinh trong kỳ khoảng 540.000 tỷ đồng). Ngân hàng sẽ tập trung ưu tiên vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dự án trọng điểm nhà nước, các dự án của các Doanh nghiệp tạo lập cân đối vĩ mô với tỷ trọng từ 85%-87%/Tổng dư nợ. Bên cạnh đó, sẽ kiểm soát và giảm tối đa tăng trưởng tín dụng cho khu vực phi sản xuất (khống chế mức tăng trưởng cho vay bất động sản dưới 9%/tổng dư nợ (kể cả các công trình hạ tầng); tỷ trọng cho vay chứng khoán dưới 0,5% tổng dư nợ, dành doanh số cho vay từ 50.000-55.000 tỷ đồng cho các Doanh nghiệp thu mua xuất khẩu (gấp 2 lần so với năm 2010, nâng tỷ trọng cho vay doanh nghiệp thu mua hàng xuất khẩu chiếm 5%/Tổng dư nợ) và doanh số cho vay khoảng 165.000 - 170.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (gấp 1,5 lần so với năm 2010), nâng tổng tỷ trọng cho DNV&N lên 20%/Tổng dư nợ, kiểm soát cho vay ngoại tệ không vượt quá 20%/Tổng dư nợ trên nguyên tắc chỉ phục vụ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh thiết yếu của nền kinh tế và doanh nghiệp vay có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc đẩy mạnh công tác Cổ phần hóa trong năm 2011 để tăng vốn điều lệ tối thiểu từ 4.000-5.000 tỷ đồng, đưa vốn chủ sở hữu lên 29.000-30.000 tỷ đồng và vốn điều lệ lên 18.000-19.000 tỷ đồng (vốn điều lệ hiện tại của BIDV là 14.374 tỷ đồng - Nguồn: NHNN) được xem là trọng điểm, và cuối cùng là tiếp tục làm việc với các cơ quan Nhà nước để tổ chức phát hành 500 triệu USD trái phiếu quốc tế của BIDV nhằm tăng vốn cấp 2 khi điều kiện thị trường cho phép. Vietcombank (Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam) Ngày 01 tháng 04 năm 1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là NHNN). Theo Quyết định nói trên, NH Ngoại thương đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)... Ngoài ra, NH Ngoại thương còn tham mưu cho Ban lãnh đạo NHNN về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2006, NH Ngoại thương đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NH Ngoại thương còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của NH Ngoại thương tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế. Với mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và trở thành ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới, hoạt động đa năng, kết hợp với điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “Luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt” trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói riêng đang trong quá trình hội nhập, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam đã xây dựng cho mình một chiến lược phát triển từ nay đến 2010 với những nội dung chính như sau: Nâng cao năng lực, nâng cao sức cạnh tranh bằng việc phấn đấu nâng chỉ số CAR đạt 10-12% và các chỉ số tài chính quan trọng khác theo chuẩn quốc tế, phấn đấu đạt mức xếp hạng “AA” theo chuẩn mực của các tổ chức xếp hạng quốc tế. Hoàn thành quá trình tái cơ cấu ngân hàng để có một mô hình tổ chức hiện đại, khoa học, phù hợp với mục tiêu và bảo đảm hiệu quả kinh doanh, kiểm soát được rủi ro, có khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng, tổng hợp, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường và nhu cầu của khách hàng thuộc mọi thành phần. 3.3 Tác động của các ngân hàng thương mại đến kinh tế Việt Nam Chúng ta có thể nhận thấy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam chưa “phủ sóng” được toàn nền kinh tế. Một dấu hiệu rõ rệt cho thấy ở Việt Nam, mức độ “ngân hàng hóa” còn rất thấp chính là tình trạng đôla hóa và tiền mặt hóa của nền kinh tế vẫn phổ biến quá mức. Vấn đề này là trở lực lớn gây tác động tiêu cực đến hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia và của việc huy động và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm và nhàn rỗi trong dân cư. Hệ thống ngân hàng thương mại của chúng ta từ ngày được sinh ra cho đến nay hầu như đang bị “đô thị hóa” hoàn toàn, và tình trạng đô thị hóa đó không phải vì lợi ích chung của toàn nền kinh tế. Hiện nay ở Đồng bằng sông Cửu Long và cả miền Đông Nam bộ chỉ còn một ngân hàng cổ phần nông thôn hoạt động cầm chừng. Trên thực tế, các ngân hàng nông thôn trước đây, tuy mang tiếng là ngân hàng nông thôn nhưng chẳng những không tập trung mở rộng tín dụng cho nông dân - những người thật sự cần vốn - mà dần dần có xu hướng đô thị hóa, tham gia tích cực các hoạt động cho vay thương mại cùng các hoạt động kinh doanh chứng khoán và đầu cơ bất động sản. Bản thân ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng không mặn mà lắm với việc cho vay nông nghiệp và phát triển nông thôn như tên gọi của mình. Quy mô về vốn của các ngân hàng thương mại VN còn nhỏ, quy mô về tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ, trình độ quản lý của các NHTMVN còn thấp. Nhóm NHTM nhà nước tuy chiếm gần 70% tổng nguồn vốn huy động và gần 80% thị phần tín dụng nhưng chỉ có tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, từng NHTM trong nhóm các NHTM nhà nước đạt tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản chưa tới 5% (thông lệ tối thiểu của ngân hàng quốc tế đạt tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản là 8%). Khối NHTM cổ phần với 36 ngân hàng chỉ chiếm 11% tổng nguồn vốn huy động và 10% thị phần tín dụng. Nhóm chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh (30 ngân hàng) có tiềm lực khá mạnh với 30% vốn chủ sở hữu trong hệ thống NHTM đang hoạt động tại VN nhưng nhìn chung họ có ưu thế hơn các NHTMVN về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản. Dịch vụ ngân hàng của các NHTMVN, còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho các ngân hàng, các nghiệp vụ như môi giới, thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của NHTMVN. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những chuyển biến tích cực nhưng còn nhiều vướng mắc. Hầu hết các chủ trang trại và các công ty tư nhân khó tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng và vẫn phải huy động vốn bằng các hình thức khác. Bên cạnh đó, một số loại hình nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại VN hoặc chưa có quy định điều chỉnh nhưng đã được cam kết tại hiệp định cho phép các ngân hàng nước ngoài được thực hiện, sẽ buộc NHNNVN phải khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới. Năm 2010 ghi lại nhiều biến động của kinh tế Việt Nam qua các hoạt động của ngân hàng: Kỷ lục của chênh lệch tỷ giá Khoảng 10% là chênh lệch kỷ lục giữa giá USD trên thị trường tự do so với giá niêm yết chính thống. Đây cũng là điểm nhấn của năm có nhiều biến động trên thị trường ngoại hối và sự điều chỉnh của chính sách, mà mức tăng chung cuộc 5,53% của tỷ giá USD/VND không thể phản ánh hết. Ngay đầu năm là quyết định hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, tiếp đó là mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, áp trần lãi suất tiền gửi USD tối đa 1%/năm đối với các tổ chức, thực hiện “kết hối” đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước, hai lần trực tiếp tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng, triển khai loạt giải pháp nắn dòng tín dụng ngoại tệ… Phía sau loạt chính sách này là trạng thái khá ổn định của tỷ giá và cung - cầu ngoại tệ trong khoảng 7 tháng đầu năm. Nhưng căng thẳng trên thị trường bắt đầu bùng phát từ trung tuần tháng 10 và trong tháng 11; chênh lệch khoảng 10% nói trên có trong thời điểm này. Bên cạnh những giải pháp kỹ thuật, một lần nữa quyết định bán ra ngoại tệ được công bố. Quy mô các ngân hàng phát triển mạnh Năm 2010 đánh dấu sự hiện diện và hoạt động một cách toàn diện của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài với sự mở rộng mạng lưới, sản phẩm dịch vụ một cách nhanh chóng. Vào thời điểm cuối năm, thị trường đón nhận loạt thông tin các ngân hàng ngoại tăng mạnh vốn được cấp. Sức cạnh tranh từ khối này chính thức bước vào giai đoạn mới. Đi cùng với những chuyển động này là sự gia tăng lợi ích của khách hàng. Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, năm 2010 ghi nhận sự mở rộng của các dịch vụ tiện ích như ngân hàng điện tử, đặc biệt là dịch vụ thẻ với việc triển khai kết nối mạng lưới ATM, POS thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc. Lãi suất đột ngột đảo chiều Từ tháng 6, nhiều lần Chính phủ nhấn mạnh đến định hướng hạ lãi suất VND. Nỗ lực theo hướng này ghi nhận ở điểm đến 11%/năm của lãi suất huy động. Tuy nhiên, lạm phát gia tăng, cuộc đua lãi suất đột ngột bùng phát vào cuối năm và đỉnh điểm là sự kiện Techcombank “3 ngày vàng” khuyến mại, thị trường nhiều xáo trộn. Đi cùng với diễn biến trên, lãi suất trong năm 2010 có sự song hành của các cam kết đồng thuận và sự mong manh của nó. “Phá trần”, “giao dịch ngầm”, “lãi suất chui”… là những cụm từ được một số phương tiện truyền thông dùng để phản ánh cho thực trạng của lãi suất những tháng cuối năm. Phải đến trung tuần tháng 12, Ngân hàng Nhà nước vào cuộc qua cam kết giữa các nhà băng, tình hình mới tương đối ổn định. Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN NHTM VIỆT NAM 4.1 Những vấn đề tồn tại hạn chế sự phát triển của NHTM 4.1.1. Về quản lí mô hình hoạt động Cơ chế tự do hoá lãi suất chỉ phát huy tác dụng tốt trong điều kiện các ngân hàng thương mại  phải hoạt động vững mạnh, đảm bảo được các tiêu chí về chất lượng tài sản có, tài sản nợ, chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý, quy trình quản lý rủi ro lãi suất. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có những giải pháp hoàn thiện và tái cấu trúc tổ chức hoạt động quản trị để nâng cao năng lực quản trị lãi suất của mình. Trong đó, cơ cấu lại mô hình tổ chức hệ thống Ngân hàng thương mại  là yếu tố quyết định sự phát triển của ngân hàng. Ở Việt Nam đang tiến hành mô hình hai cấp. Cụ thể như sau: Mô hình tổ chức và quản lý hiện tại được phân biệt chủ yếu theo chức năng với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý kinh doanh. + Cấp quản trị điều hành: Là hội đồng quản trị gồm chủ tịch Hội đồng quản trị và một số thành viên chuyên trách, làm việc theo chế độ tập thể, giúp việc Hội đồng quản trị có ban chuyên viên và ban kiểm soát. Về nguyên tắc Hội đồng quản trị  thực hiện chức năng quản lý đối với mọi hoạt động của ngân hàng; chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; ban hành các điều lệ, cơ chế, qui chế tổ chức và hoạt động của các ngân hàng. + Cấp quản lý kinh doanh: Cấp điều hành kinh doanh gồm Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc và các phòng ban tham mưu giúp việc tại hội sở chính, bên cạnh Tổng giám đốc có Kế toán trưởng. Cấp trực tiếp kinh doanh gồm các đơn vị hạch toán độc lập, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, các đơn vị sự nghiệp và đơn vị hùn vốn kinh doanh . * Chính bộ máy cũ này cũng mang lại nhiều mặt hạn chế: + Đối với Hội đồng quản trị cơ quan quản lý cao nhất không tập trung được các luồng thông tin chủ yếu về hoạt động của ngân hàng để xây dựng, kiểm tra các mục tiêu chiến lược và các quyết định phòng ngừa rủi ro trong đó có rủi ro lãi suất. + Các phòng ban nghiệp vụ từ trụ sở chính và chi nhánh được phân nhiệm theo chức năng nghiệp vụ và cắt khúc theo địa giới hành chính, chưa chú trọng phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ như thông lệ quốc tế. Đây là hạn chế lớn nhất về cấu trúc quản lý và phát triển sản phẩm mới đối với ngân hàng thương mại + Thiếu các bộ phận liên kết các hoạt động, các quyết định giữa các phòng ban nghiệp vụ, tạo điều kiện cho Hội đồng quản trị và ban điều hành bao quát toàn diện hoạt động và tập trung nhân lực, tài lực vào các định hướng chiến lược. Nhìn chung các ngân hàng thương mại rất lúng túng trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch kinh doanh do thiếu các cơ quan và cơ sở dữ liệu về phân tích, dự báo môi trường kinh doanh, đánh gía nguồn lực và xác định tầm nhìn trung, dài hạn vốn là công cụ quản lý cơ bản của các ngân hàng thương mại hiện đại. 4.1.2. Về việc hoàn thiện văn bản pháp lí: Trong ngày 22 và ngày 23/5/2010 vừa qua, các đại biểu Quốc hội đã tập trung thảo luận và cho ý kiến sau khi nghe báo cáo, tổng hợp kết quả tiếp thu và giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Thế nhưng, qua những lần xây dựng dự thảo và lấy ý kiến đó, có một số vấn đề thực tế hoạt động của các ngân hàng thương mại đòi hỏi vẫn còn để ngỏ, không được đưa vào nội dung hoặc ít được quan tâm, đề cập tới. Có bỏ rơi mô hình tập đoàn tài chính? Những năm gần đây các ngân hàng thương mại đã phát triển nhanh, mở rộng về lĩnh vực hoạt động và địa bàn. Theo sự phát triển này, mô hình hoạt động tài chính – ngân hàng được đặt ra, thậm chí được nhấn mạnh trong định hướng của nhiều thành viên; đơn cử như ngân hàng Á Châu (ACB), Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank)… Có trường hợp đã khẳng định thông điệp hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng, hay sự nhấn mạnh trong các phát ngôn thông tin công bố… Thế nhưng thực tế có trường hợp vẫn còn lưỡng lự khi đưa thông điệp đó cáo chính sách truyền thông và phát triển thương hiệu, dù họ tiếp cận mô hình tập đoàn theo thông lệ quốc tế. Tại Việt Nam hiện nay, một số ý kiến cho rằng đã có những thay đổi lớn, căn bản về cơ cấu kinh tế và môi trường kinh doanh, do đó sự ra đời của những tập đoàn tài chính – ngân hàng là tất yếu nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh, đảm bảo quyền chi phối của Nhà nước thông qua các tập đoàn trong việc phát triển kinh tế. Hiện nay, chính phủ đã ban hành Nghị định 101/2009/NĐ-Cp về thành lập, quản lí, giám sát tập đoàn kinh tế nhà nước nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Hơn nữa, nghị định này không hướng đến nhiều trong việc điều chỉnh tập đoàn tài chính – ngân hàng nên dường như vẫn còn bỏ ngỏ khả năng các cơ quan quản lí nhà nước sẽ ban hành quy định mang tính chuyên ngành về quy mô này. 4.1.3. Về chất lượng hoạt động của các tổ chức Việt Nam hiện nay có rất nhiều ngân hàng thương mại, có thể nói đó là một con số khá lớn so với qui mô thị trường nước ta. Tuy nhiên, trong đó có 10 công ty trở lại là có thương hiệu và qui mô lớn trong cả nước. Nhìn chung qui mô nhỏ bé của các NHTM sẽ hạn chế cho sự phát triển tính chuyên môn hóa ở tầm cao và khó có khả năng vươn mình sang một mô hình NHTM với sự đa dạng về nghiệp vụ và sản phẩm. Trong khi các ngân hàng nước ngoài đang bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam và trực tiếp cạnh tranh thì tình chuyên nghiệp, quy mô và thương hiệu là cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết. Với sự cần thiết về qui mô, tính chuyên nghiệp như vậy thì nguồn nhân lực là điều quan trọng hơn cả. Nguồn nhân lực chúng tôi đề cập là nguồn nhân lực ở các cấp khác nhau, từ cấp quản lí đến các cấp nhân viên khác nhau. Tại Việt Nam, theo ACCA, nguồn nhân lực cho ngành tài chính đang thiếu hụt một cách khá trầm trọng, trong khi đó trở ngại lớn nhất liên quan đến khả năng tiếp cận ngoại ngữ còn khá hạn chế, nên ước tính có khoảng 200/1000 chuyên gia tài chính đang hoạt động là có bằng cấp đạt chuẩn quốc tế mà thôi. Có thể kết luận rằng tổn thất về mặt con người là một hạn chế cho sự phát triển NHTM Việt Nam. Một ví dụ điển hình của các tổn thất này là trường hợp NHNN Việt Nam, theo kết luận của thanh tra NHNN tại sở Quản lý và kinh doanh vốn ngoại tệ đã kết luận chỉ trong vòng 10 tháng cuối năm 2004, đơn vị này đã kinh doanh ngoại tệ thua lỗ tới 499 tỷ đồng. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do cán bộ đã không tuân thủ quy trình nghiệp vụ ngày càng trở nên phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra các tổn thất cho các Ngân hàng. Mặt khác, hoạt động gian lận và tội phạm bên ngoài cũng ngày càng gia tăng. Năm 2005, lực lượng cảnh sát điều tra về trật tự quan lý kinh tế và chức vụ đã phá nhiều vụ án rất nghiêm trọng trong lĩnh vực NH, hoạt động phạm tội chủ yếu là sử dụng công nghệ cao để lấy cắp mật mã rút tiền, sử dụng công nghệ đột nhập các hệ thống thanh toàn, tạo ra các sắc lệnh chuyển tiền vãng lai để chiếm tiền NH có xu hướng tăng lên. 4.2. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển của NHTM Việt Nam Như vậy có thể nói rằng, dù tổ chức hay cơ quan hoạt động nào cũng có những mặt hạn chế. Song, điều cần thiết hơn tất cả là nhận ra những mặt hạn chế đó và dần khắc phục theo hướng hợp lí hơn. Và nhóm nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp từ các chuyên gia kinh tế và một số ý tưởng của chính nhóm nghiên cứu đề xuất để góp phần nhỏ cho sự phát triển vững mạnh của hệ thống NHTM Việt Nam. 4.2.1. Giải pháp quản lí mô hình hoạt động Mô hình tổ chức như đã nêu trên (4.1.1) chỉ thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui mô nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi ngân hàng phát triển với qui mô ngày càng lớn với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng, khối lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp hơn thì mô hình tổ chức của Ngân hàng thương mại Việt Nam có những hạn chế như việc tổ chức và bố trí các phòng nghiệp vụ hiện nay cả ở cấp trung ương và chi nhánh đang được tiến hành phân cấp quản lý theo loại hình nghiệp vụ, chưa chú trọng quản lý theo thị trường và đối tượng phục vụ. Theo đó việc cơ cấu lại tổ chức là điều tất yếu. Mà thích hợp nhất là phân định phòng ban theo sản phẩm: +Tại trụ sở chính của Ngân hàng thương mại: Hội đồng quản trị  hiện tại có ban chuyên viên có tránh nhiệm giúp Hội đồng quản trị, về quản lý chiến lược thì cần thành lập thêm ban quản lý rủi ro giúp Hội đồng quản trị phân tích, xây dựng chuẩn mực và quản lý rủi ro toàn hệ thống trong đó có quản lý rủi ro về lãi suất với mục đích nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Hội đồng quản trị đặc biệt là quản lý chiến lược và rủi ro. Cấp Ban Tổng giám đốc trên cơ sở bố trí lại các phòng, ban nghiệp vụ thành các khối được phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ. Thành lập thêm ban quản lý tài sản nợ - tài sản có và chấn chỉnh cơ quan kiểm toán nội bộ trực thuộc ban Tổng giám đốc. + Ở chi nhánh, đặc biệt là các chi nhánh lớn, cần cấu trúc lại các phòng tác nghiệp theo loại hình nghiệp vụ sang nhóm khách hàng và loại dịch vụ. Theo hướng này về cơ bản hoạt động ngân hàng sẽ tổ chức lại thành khối ví dụ như khối dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp, khối dịch vụ ngân hàng bán lẻ (tư nhân), khối dịch vụ thị trường tài chính,… Với mô hình tổ chức được sắp xếp như trên sẽ khắc phục được những mặt hạn chế đã được biểu lộ nhiều năm qua đó là: Kiểm soát được rủi ro (rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường khách hàng.v.v..), nâng cao năng lực kiểm soát, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao trình độ nghiệp vụ một người biết nhiều việc, tạo điều kiện trong việc bố trí sắp xếp tổ chức cán bộ. Phân định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và kiểm soát hạn mức rủi ro tín dụng góp phần nâng cao chất lượng quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro lãi suất nói riêng theo từng đối tượng khách hàng. Thành lập bộ phận quản lý tài sản nợ – tài sản có và ban quản lý rủi ro + Ban quản lý rủi ro: Được thành lập sẽ trực thuộc Hội đồng quản trị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Hội đồng quản trị, đặc biệt là quản trị chiến lược và quản trị rủi ro. Bộ phận này sẽ giúp hoạt động quản trị tổng hợp, phân tích và đánh giá mức độ rủi ro, tham mưu cho Hội đồng quản trị trong việc hoạch định chiến lược cũng như theo dõi việc thực hiện chiến lược đã vạch ra ; Thiết kế hệ thống các chỉ tiêu dự báo môi trường kinh doanh, đánh giá nguồn lực và xác định các mục tiêu phát triển trung dài hạn. Do các lĩnh vực hoạt động của bộ phận quản lý rủi ro liên quan nhiều đến việc hoạch định và thực thi chiến lược nên tổ chức và hoạt động của bộ phận này trực thuộc Hội đồng quản trị . + Bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có: Để nâng cao năng lực điều hành của nhà quản trị ngân hàng, bộ phận quản lý tài sản có và tài sản nợ có nhiệm vụ theo dõi và quản lý các danh mục trong bảng tổng kết tài sản, quản lý khả năng thanh toán và các rủi ro thị trường (rủi ro lãi suất, tỷ giá,…). Đặc biệt, bộ phận này còn làm nhiệm vụ thu thập, xử lý, quản trị thông tin để cung cấp cho cán bộ tín dụng khi họ có nhu cầu như: thông tin về khách hàng, thông tin về thị trường, thông tin cạnh tranh,… Bên cạnh đó, bộ phận này còn liên kết các hoạt động, các quyết định của các phòng nghiệp vụ giúp ban điều hành ngân hàng nắm được tổng thể và nhìn nhận bao quát hơn các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu lại mô hình tổ chức theo hướng nâng cao kỹ năng quản lý rủi ro bằng cách thành lập bộ phận quản lý rủi ro (trực thuộc Hội đồng quản trị), bộ phận quản lý tài sản nợ và tài sản có (trực thuộc Ban giám đốc) sẽ giúp tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản trị, điều hành và cũng nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng. Có lẽ kiến nghị cũng không kém phần quan trọng đó là: tách biệt hoạt động cho vay chính sách và cho vay thương mại. Cụ thể là: Luật ngân hàng đã qui định một loại hình ngân hàng mới là Ngân hàng chính sách với mục đích hoạt động nhằm thực hiện các chủ trương ưu đãi của Nhà nước đối với một số đối tượng chính sách. Việc thực hiện tách biệt hoạt động cho vay chính sách chính là để tách cơ chế bao cấp ra khỏi cơ chế kinh doanh nó rất phù hợp và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng  phát triển lành mạnh, đảm bảo sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh giữa ngành ngân hàng và các ngành kinh tế khác đồng thời giữa các tổ chức tín dụng với nhau, bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu đầu tư vào hệ thống các tổ chức tín dụng. 4.2.2. Hoàn thiên tính pháp lí cho sự phát triển Các Ngân hàng phải xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản chế độ quy chế quy trình nghiệp vụ, cụ thể: Ban hành đầy đủ các quy chế quy trình nghiệp vụ trên nguyên tắc tuân thủ các quy định của nhà nước, của NHNN Việt Nam; kịp thới hướng dẫn các văn bản chế độ, quy chế, quy trình… phải được tố chức nghiên cứu, tập huấn và quán triệt để đảm bảo mọi cán bộ nắm vững và thực thi đầy đủ, chính xác. Ngoài những ý trên, về vấn đề pháp lý cho sự phát triển của NHTM thì nhóm không có kiến nghị nào hơn. Có lẽ đây là câu chuyện của các nhà làm luật tín dụng Việt Nam. Khi mà luật các tổ chức tín dụng vừa mới thông qua, thì vẫn còn thiếu sót, bỏ ngỏ nhiều vấn đề thực tế đang cần tới, thì nhóm nghiên cứu hy vọng luật các tồ chức tín dụng hoàn thiện hơn trong thời gian gần đây nhằm đáp ứng những yêu cầu thực tế, thỏa mãn những yêu cầu mang tính pháp lí để hoạt động dịch vụ NHTM phát triển hiệu quả hơn nữa. 4.2.3. Nâng cao qui mô và chất lượng hoạt động của NHTM Việt Nam Đầu tiên cần phải có các giải pháp đối phó với các yếu tố từ bên ngoài như sự thay đổi về cơ chế, chính sách của Nhà nước, sức ép từ việc thực hiện các cam kết theo thông lệ, các diễn biến phức tạp của xu hướng thị trường, tác động tiêu cực của các thông tin truyền thông truyền thống bất cân xứng… Để hạn chế tối đa rủi ro hoạt động nhưng tác động tiêu cực từ bên ngoài các NH cần thưc hiện các biện pháp cơ bản sau: Trước hết là tuân thủ nội dung các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của chính phủ, các Bộ ngành có liên quan trong quá trình xây dựng quy chế, quy trình, hướng dẫn, nghiệp vụ cũng như trong quá trình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNgân hàng thương mại.doc
Tài liệu liên quan