Tiểu luận Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn

MỤC LỤC

 

I. Lời mở đầu 1

II. Nội dung 2

A. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn 2

1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 2

2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 4

3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nứơc ta 6

4. Một số kinh nghiệm quốc tế về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn 8

B. Thực trạng và định hướng giải pháp 10

1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện nay 10

2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá nông thôn 14

a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 14

b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay 15

Kết luận 19

 

 

docx28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háp máy móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng cũng như người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại không biết cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây nên sự lãng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử dụng cũng cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với các loại công nghệ và thiết bị. Máy móc khoa học là những thành tựu sáng tạo của con người, chúng không tự bảo quản, không chống lại sự hao mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản cho nó. Ngoài ra quản lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng phí cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả một quá trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc hiện đại, trang thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không phù hợp thì cũng không có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị mới vào nông thôn. Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn và cả nước nói chung. Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chúng. Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ chức sản xuất và hoàn thiện đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn không có nghĩa là xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ cũng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với trình độ thế giới. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết với nhau, chúng tương tác với nhau, sự khácnhau giữa chúng chỉ mang tính tương đối, vì chúng có nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh tế nông thôn phát triển đi lên ngang tầm với thế giới. 2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên chế độ xã hội chủ nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém. Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được đặt ra là phải xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp, nghèo đói, sức mua hạn chế nếu không muốn nói là không thể mua nối hàng hoá cho tiêu dùng.Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp lạchậu, canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ, tự chế tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước như bước lên từ con số không. Vì vậy nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá để tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là người lao động. Con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người sáng tạo ra máy móc, bảo quản máy móc, con người luôn muốn nâng cao trình độ của mình hay là nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để biến đổi về chất lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì thực hiẹn được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng sản xuất nhờ đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động. Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Nhưng khối liên minh này cần phải được củng cố và phát triển đi lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển là nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để càng gia cố vững chắc thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước. Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao hơn. Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội. Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nước ta Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết là nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệuq ủa, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải biến lao động thủ công lạchậu thành lao động sử dụng máy móc tức là phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ công, lao động chân tay thì không thể gọi là nền nông nghiệp phát triển được, nhất là nền nông nghiệp đó lại phải gánh trên vai cả một nền kinh tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân nghèo đói bởi kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân cư làm nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt lùi không phát triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải chuyển đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng công nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà phải gắn liền với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông sản phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại thị trường bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có các loại thị trường như thị trường vốn, lao động, công nghệ. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất nước ta phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá lớn trong khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động trong nông nghiệp dư thừa thường không biết làm gì dẫn đến lãng phí tài nguyên con người. Vì vậy mục tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất trong nông nghiệp bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số vị trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực hơn, con người lao động cũng được giám bắt khối lượng công việc từ đó tăng nhanh lực lượng lao động của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Các số liệu thực tiễn phản ánh tình hình thực tiễn CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn hiện nay. Nông nghiệp đã phát triển nhanh về sản lượng, đặc biệt là lương thực, nhưng chất lượng nông sản còn thấp, khả năng cạnh tranh yếu, hiệu quả thấp. Từ năm 1981 đến nay, nông nghiệp đã phát triển với nhịp độ bình quân 4,5% năm là tốc độ khá cao. Ngoài ra đã hình thành nên các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh tập trung như: lúa, cao su, cà phê, điều, mía, rau quả, lợn, bò, tôm, cá nhưng nhìn chung sản xuất còn phân tán, quy mô sản xuất hộ gia đình còn nhỏ. Hiện nay cả nước có gần 10 triệu hộ gia đình nông sân với đất nông nghiệp bình quân 0,8 ha/hộ. Đến nay tốc độ tăng trưởng nông nghiệp vào khoảng 4,5% - 5% tốc độ phát triển kinh tế nông thôn từ10-12%, GDP bình quân đầu người 400 USD, lương thực 35-36 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 tỷ USD, tạo việc làm hàng năm 800ng/người, số xã có đường ô tô đến xã 100, số xã có điện chiếm khoảng 90%, số xã có trạm xá 100%, số xã có trường học 100%, số hộ có nước sạch để tiêu dùng vào khoảng 90%, Để hoàn thành các công trình thuỷ lợi để đảm bảo tưới cho gần 6 triệu ha lúa, 1 triệu ha rau màu và cây công nghiệp, giải quyết cơ bản yêu cầu về nước tưới và thoát lũ cho vùng ngập lũ, ngọt hoá các vùng đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long. Đã duy tu và nâng cấp 6000 km đường cấp huyện, hỗ trợ nâng cấp gần 6000 km đường xã hiện có, xây dựng mới khoảng 6500 đường tới các trung tâm xã hiện có đường ô tô, xây dựng cải tạo 4000 cầu cống. Tỷ lệ cơ giới hoá các khâu nặng nhọc như làm đất là 60%, tuốt lúa là 70%, cơ giới hoá khâu tưới tiêu nước 70%. Công nghệ sinh học đã được coi trọng và đưa vào nghiên cứu với quy mô lớn. Áp dụng nhanh các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng, vật nuôi, đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai, kỹ thuật cây truyền hợp tử, kỹ thuật gen, hoóc môn sinh trưởng, áp dụng công nghệ sản xuất các loại phân vi sinh cố định nitơ để thay thế dần phân đạm hoá học nhằm nâng cao chất lượng nông sản phẩm. 4. Một số kinh nghiệm quốc tế về công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Trong hơn ba thập niên qua, một số nước đã đạt được những thành tựu nổi bật về công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. Đây là những kinh nghiệm giúp chúng ta tham khảo nhằm nâng cao chất lượng các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn, cũng như tránh khỏi những sai lầm mà nhiều nước đã gặp phải. Vì vậy để đạt tới một nền sản xuất nông nghiệp hiện đại cần tới một số yếu tố sau: Vấn đề ruộng đất: cải cách ruộng đất theo hướng người cầy có ruộng là biện pháp cần thiết nhằm gắn chặt với lợi ích của người lao động với việc sử dụng ruộng đất. Do vậy đây là động lực lâu dài để phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nước và vùng lãnh thổ đạt thành công trong cải cách ruộng đất như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… đã duy trì được mức phát triển cao và ổn định trong nhiều năm. Trong quá trình phát triển rất yếu sẽ dẫn tới quá trình tích tụ ruộng đất, hình thành những nông trại có qui mô thích hợp để kinh doanh có hiệu quả. Chính phủ nhiều nước đã hỗ trợ quá trình này bằng cách thu hút lao động dư thừa vào công nghiệp và dịch vụ, thay đổi chính sách hạn điền bằng cách nâng mức từ 3ha/hộ lên 30ha/hộ (Hàn quốc), cho các nông dân được vay tín dụng để lại ruộng đất của các hộ khác nhằm tăng quy mô ruộng đất (Đài Loan). Vấn đề đầu tư cho nông nghiệp: việc tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp là yếu tố rất cần thiết để phát triển một nền nông nghiệp hiện dại. Trong các nguồn vốn đầu tư này thì vốn đầu tư Nhà nước thường có vai trò quan trọng nhất. Để nâng cao năng suất lao động cần tăng cường đầu tư gián tiếp cho sản xuất nông nghiệp tức là đầu tư vào các hoạt động phục vụ lợi ích chung của nền nông nghiệp như: đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đầu tư nghiên cứu lai tạo giống mới có năng suất và đặc tính tốt. Chính sách định hướng xuất khẩu nông sản là bài học quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất nông sản hàng hoá theo cơ chế thị trường. Phải tập trung phát triển các mặt hàng nông sản mũi nhọn, lựa chọn các biện pháp bảo họ sản xuất có mục tiêu đối với lĩnh vực nông nghiệp cũng là một biện pháp để kích thích phát triển nông nghiệp. Các chính sách của Nhà nước đã góp một phần tích cực trong sự phát triển công nghiệp hoá - hiện dại hoá nông nghiệp nông thôn. Ví dụ như chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển bằng biện pháp tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh ổn định và thuận lợi như: đảm bảo quyền sở hữu (tài sản và trí tuệ) xây dựng các luật, chính sách và bảo đảm hiệu lực bộ máy thi hành luật đơn giản thủ tục thành lập các doanh nghiệp… Khuyến khích cạnh tranh trong nước nhằm nâng cao năng lực quảnlý kinh doanh trước khi cạnh tranh với nước ngoài trên một số mặt bằng chung, nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng: đường giao thông, cầu cống, xây dựng các trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản. Mỗi nước đầu có chính sách cụ thể đối với từng mặt hàng nhằm phát triển năng lực sản xuất trong nước và tạo ra những mặt hàng có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trên đây là một số kinh nghiệm vô cùng quan trọng và cần thiết, là tấm gương để Việt Nam noi theo nhằm cải tiến nền nông nghiệp lạc hậu, hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nhằm đưa nền nông nghiệp nước ta phát triển một cách toàn diện nhất. B. THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP 1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta hiện nay Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhận ra một số mặt yếu kém, một số thực trạng vẫn tồn tại song hành cùng với sự phát triển của nông thôn. Hiện nay sản xuất nông nghiệp ở nước ta phổ biến còn trong tình trạng phân tán, đơn lẻ, thiếu sự phối hợp nên chất lượng sản phẩm không đồng nhất, thu gom và vận chuyển khó khăn giá thành cao. Trong cùng một sản phẩm luôn có sự cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người sản xuất, thu gom với người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng lại chính là người nông dân. Đó cũng chính là sự bất cập trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn nặng tính thuần nông. Những khảo sát của những thập kỷ gần đây, ở nhiều vùng của đất nước cho thấy cơ cấu lao động trong nông nghiệp hầu như không thay đổi. Ngoài ra do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo dài làm cho không ít người lao động đã quen với tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu nhạy bén khi phải đối mặt với việc làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị trường. Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính sách công nghiệp hoá hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên thực tế chưa có tác động tích cực cho việc tăng cường mối liên kết giữa thành thị và nông thôn. Trong những giải pháp tiến hành, chưa đặt đúng vai trò ngành nghề và công nghiệp nông thôn như một khâu trung gian để qua đó thực hiện chuyển giao công nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông nghiệp, mặt khác các hoạt động nông nghiệp hoặc mang tính nông nghiệp có thể chuyển dần sang công nghiệp. Có thể nói đây chính là khuyết tật cơ cấu cả về phương diện ngành lẫn lãnh thổ, là khâu ách tắc của quá trình công nghiệp hoá. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến sau nhiều thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam vẫn còn là một nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời gian tới thiếu những thể chế và giải pháp thiết thực thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì tăng trưởng kinh tế nông thôn và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển bền vững. Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho thấy, công nghiệp nông thôn ở Việt Nam có trình độ công nghệ và dịch vụ thấp hơn rất nhiều so với thành phố.Trên thực tế công nghiệp được xây dựng ở nông thôn hiện nay chủ yếu dùng công nghệ cũ được thải loại từ các vùng đô thị mang vào. Là một bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của công nghiệp nông thôn chịu tác động của sản xuất nông nghiệp mang tính chu kỳ, việc cung cấp nguyên liệu và sử dụng lao động trong năm có sự biến động khá lớn. Số lượng làm việc trong các cơ sở công nghiệp nông thôn phụ thuộc vào thời vụ, nếu vào vụ mùa hoặc đi cấy, đi gặt lực lượng lao động giảm mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công việc chính của mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công việc làm ruộng chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên liệu cung ứng cho các cơ sở chế biến liên quan chặt chẽ với thời kỳ thu hoạch cây trồng lương thực thực phẩm chỉ tồn tại theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ sở chế biến nông sản phẩm cũng phải hoạt động tương tự như vậy. Nhà máy, công nhân phải làm việc hết công suất khi vụ thu hoạch tới gần, còn lại phải làm việc cầm chừng khi qua mùa thu hoạch. Do vậy không ít hộ gia đình côn nghiệp nông thôn phải dành toàn bộ thời gian của lao động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn trương. Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân cũng có hạn do không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ, đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có điều kiện có được công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất khẩu cũng chỉ được bán với giá rẻ mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới thường xuyên bị kiện bán phá giá. Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó cũng chỉ là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của các doanh nghiệp, ngoài ra còn một yếu tố vô cùng quan trọng nữa đó là giá thành sản phẩm. Giá thành của một sản phẩm còn được coi là yếu tố cơ bản nhất trong cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Các doanh nghiệp khi muốn tăng lợi nhuận kinh doanh, tăng khối lượng sản phẩm bán ra nhưng khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn mua được những hàng hoá rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá thành là đánh đúng tâm lý của người tiêu dùng. Nhưng không phải cứ giảm thật mạnh giá mà không quan tâm tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Giảm giá quá thấp thì chỉ bán được sản phẩm nhiều thì doanh nghiệp cũng không thể có lãi. Đối với các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách giảm giá duy nhất chỉ có thể là cải tiến trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết hợp hài hoà các tầng lớp công nghệ trong tổ chức sản xuất sẽ tạo thuận lợi để xác định quy mô vùng nguyên liệu gắn liền với việc sơ chế và kinh tế tập trung. Như vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm một lượng chi phí dùng cho vận chuyển hao mòn máy móc ngoài ra còn tạo được việc làm cho số lao động nông thôn, đồng thời với nâng cao chất lượng và hạ giá thành nông sản. Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước ta hay nói cách khác là những nước đang phát triển đó là mới bước đầu đi vào quá trình phát triển đất nước phát triển nền kinh tế nên quá trình phát triển đó còn mang nặng tính tự phát, phân tán tuỳ tiện với quy mô thì nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn trở nên khó khăn hơn. Do dân trí của con người nông thôn thấp, không được đào tạo cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu là càng phát triển mạnh công nghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Chất thải công nghiệp không được xử lý được thải bừa bãi ra môi trường, sông ngòi gây nên ô nhiễm ngày một trở nên trầm trọng hơn. Hoá chất không được xử lý đổ thẳng ra ngoài lỗi chủ yếu là do ý thức của con người quá kém. Tự họ tự chọn cho mình một cuộc sống đầy bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng đối mặt với nguy cơ nhiễm các bệnh hiểm nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng trở nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát của con người. Nhưng đứng trước thảm hoạ sinh học như vậy con người lại thản nhiên cho qua, tiếp tục những hành động phá huỷ môi trường mà không chút do dự hay phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang rung lên cảnh báo những con người đang hàng ngày phá huỷ môi trường tự nhiên. Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng do chưa được sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả vì vậy mà nông thôn vẫn chưa tiếp cận được với trình độ phát triển của thành thị. Chính phủ luôn kêu gọi các vùng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá. Những chính sách khuyến khích mà các vùng đưa ra cũng không thu hút được tiềm năng đầu tư ở bên ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an ninh an toàn cho người lao động cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại cho những nhà đầu tư muốn đầu tư vào phát triển công nghiệp. Có rất nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm sao để huy động được nguồn vốn đó là cả quá trình lâu dài tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Khi các nhà đầu tư trở nên tin tưởng thì họ sẵn sàng đầu tư nguồn vốn của mình khi đó vừa phát triển được công nghiệp của vùng đó lại vừa tạo điều kiện việc làm cho lao động dư thừa rỗi trong vùng. Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước đi quan trọng đưa nền kinh tế phát triển đi lên.Nhưng song hành cùng với đó là những khó khăn, những sai lầm cần phải khắc phục. Vấn đề trọng tâm là phải có một chính sách phù hợp để đưa đất nước phát triển đi lên sánh tầm cùng với các nước trên thế giới. Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã cho Việt Nam rất nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ đắc lực cho nền kinh tế Việt Nam. Như Trung Quốc là một ví dụ điển hình bởi Trung Quốc là quốc gia đất rộng, người đông nhưng họ lại có những thành tựu to lớn về nông nghiệp trong thời kỳ cải cách. Đó là sự phát triển của công nghiệp thành thị và công nghiệp nông thôn (còn gọi là các xí nghiệp hương trốm). Trong thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc thù Trung Quốc phát triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông thôn, tạo ra giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn vượt giá trị sản lượng nông nghiệp, làm cho nhiều làng quê trở nên giàu có trù phú nhờ các xí nghiệp hương trốm. Từ đó ta có thể thấy rằng, trong điều kiện đặc thù của các nước châu Á, nông nghiệp thực sự là điểm tựa của công nghiệp hoá nông thôn. Để phát triển công nghiệp hoá nông thôn, các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc đã đẩy mạnh cơ giới ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT30.docx
Tài liệu liên quan