Tiểu luận Nâng cao hiệu quả của giọng nói trong phát thanh hiện đại

MỤC LỤC

Lời mở đầu

I. Phát thanh hiện đại

1. Xuất hiện phát thanh hiện đại

1.1. Điều kiện kỹ thuật

1.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội

2. Xu hưíng của phát thanh hiện đại

2.1 Thụng tin nhanh

2.2 Núi ngắn, viết ngắn

2.3 Tăng tính đời thường và đáp ứng yêu cầu giải trí

2.4 Nâng cao tính chiến đấu

2.5 Xây dựng hệ thống phát thanh mở

2.6 Khai thác đặc điểm truyền thanh và thay đổi cách thể hiện giọng núi

II. Vai trũ của giọng đọc trong phát thanh

1. Các yếu tố âm thanh trong phát thanh

2. Giọng đọc trong chương trình phát thanh

2.1. Đơn giọng – song giọng – đa giọng trong phát thanh

2.2. Chất giọng của từng người như thế nào là hợp lý

2.3. Mối quan hệ giữa người trình bày phát thanh víi người chuẩn bị phát thanh

III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giọng núi trong phát thanh

1. Việc lựa chọn giọng - chất lượng giọng đọc

2. Vai trũ của văn bản phát thanh

Kết luận

Tài liệu tham khảo

Một số phát thanh viên có giọng đọc điển hình

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2639 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nâng cao hiệu quả của giọng nói trong phát thanh hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần ở người làm chương trỡnh vốn kiến thức âm nhạc nhất định, và thậm chí phải có tài năng Vấn đề âm nhạc trên sóng phát thanh : Theo kết quả đó nờu ở trờn, tỷ lệ thớnh giả thớch cú sự xuất hiện của õm nhạc trờn súng phỏt thanh là rất cao. Vỡ vậy, có thể khẳng định âm nhạc là một công cụ hiệu quả nhằm tăng tính hấp dẫn của chương trỡnh phỏt thanh. Trong một hội thảo về khụng gian õm nhạc trờn súng phỏt thanh do Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức tại tp Hồ Chí Minh vào năm 2004, nhạc sĩ Trần Xuân Tiến , Trưởng ban văn nghệ Đài tiếng nói nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đó chỉ ra một thực tế “ Phải núi hơi buồn là phát thanh giờ đây dường như chỉ dành cho người nghèo. Như chương trỡnh trờn hệ AM của Đài chúng tôi, dân nội thành gần như không ai nghe”. Có nhiều nguyên nhân được nêu ra để giải thích cho vấn đề này và cũng có một số ý kiến trỏi ngược. Và cái hệ lụy ấy cũng lan sang âm nhạc trên sóng phát thanh, âm nhạc phát thanh cần phải có nhiều hơn những cố gắng để thu hút thính giả đến với chương trỡnh. Theo kinh nghiệm của cỏc Đài lớn trên thế giới thỡ phỏt thanh hiện đại chính là sự kết hợp của tin tức và âm nhạc theo công thức : Phát thanh hiện đại = tin tức + âm nhạc. Tiếng động là một yếu tố không thể thiếu trong phát thanh, đặc biệt là trong phát thanh hiện đại. Không giống như báo in có hỡnh ảnh minh hoạ, giải thớch bổ sung thụng tin, bỏo hỡnh cú hỡnh ảnh sinh động, âm thanh phải sử dụng chủ yếu kênh âm thanh, tác động duy nhất đến thính giả qua thớnh giỏc. Chớnh vỡ thế, để tạo độ chân thực sinh động và đảm bảo tính thuyết phục cho tác phẩm phát thanh, người làm phát thanh không được quên đi tiếng động. Tiếng động có 2 loại : tiếng động có sẵn trong tự nhiên và tiếng động do con người tạo ra. Dù sử dụng kiểu tiếng động nào cũng cần nhớ, vỡ bỏo chớ là chõn thực, là sự thực, vỡ thế tiếng động trong phát thanh cần sự chân thực. Mọi sự giả tạo đều gây cảm giác khó chịu và đặc biệt là mất lũng tin ở cơ quan báo chí. Giọng núi, đây là yếu tố quan trọng nhất trong một chương trỡnh phỏt thanh. Khỏn giả nghe thụng tin như thế nào, tiếp nhận đến đâu, cách truyền đạt bằng giọng nói đóng vai trũ vụ cựng quan trọng. Chớnh vỡ thế, sự quan tõm, đầu tư trong việc lựa chọn giọng đọc, cách thể hiện phù hợp với chương trỡnh là một việc cần làm của người làm phát thanh. Để nghiên cứu riêng về giọng nói đó là một vấn đề rông lớn, tỡm hiểu nhằm nõng cao hiệu quả truyền đạt của giọng nói cũn là một việc khú khăn hơn. Chính vỡ thế, bài tiểu luận này nhằm làm sỏng tỏ một vài vấn đề thực tiễn và lý thuyết về giọng núi, và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của giọng đọc trong chương trỡnh phỏt thanh. Về giọng đọc trong phát thanh như đó núi ở trờn cú rất nhiều vấn đề cần làm rừ và nghiờn cứu sõu, đũi hỏi thời gian và sự đầu tư. Ở đây, trong dung lượng ngắn, bài tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu 3 vấn đề cơ bản của giọng nói trong phát thanh. Đó là : Đơn giọng – song giọng – đa giọng trong phát thanh Chất giọng thế nào là hợp lý Mối quan hệ giữa người trỡnh bày với người chuẩn bị văn bản phát thanh Giọng đọc trong chương trỡnh phỏt thanh 2.1. Đơn giọng – song giọng – đa giọng trong phát thanh Cùng với sự bùng nổ thông tin toàn cầu, phát thanh ngày càng phải nỗ lực , phát triển, thay đổi để hũa mỡnh vào dũng thụng tin đó. Cuộc sống ngày càng hối hả, vai trũ của mỗi con người trong xó hội được nâng cao. Chính vỡ thế mà tiếng núi của mỗi người ngày càng được coi trọng. Một trong 6 khuynh hướng của phát thanh hiện đại nhằm đáp ứng của con người đó là : xây dựng chương trỡnh phỏt thanh “mở”. Cú nghĩa là trong một chương trỡnh phỏt thanh, khụng chỉ cú PTV, BTV mà cũn cú sự xuất hiện của những người dân bỡnh thường, nhất là phát thanh dành cho mọi đối tượng nói lên ý kiến của mỡnh. Lời núi trong phỏt thanh cú 2 dạng : - Độc thoại : tức là cách nói một chiều do một người hay nhiều người cùng thực hiện ( có thể do một PTV đọc tin đơn thuần gọi là đơn giọng, hay 2 người thay nhau đọc gọi là song giọng ). - Đối thoại : đối đáp giữa 2 người ( có thể là 2 PTV đối thoại với nhau hay của một phóng viên đối thoại với nhân chứng kể cả trong trường hợp trực tiếp hay đó ghi băng ). Phát thanh hiện đại kết hợp cả hai hỡnh thức này ( độc thoại và đối thoại) tạo nên bức tranh phong phú, đa dạng cho chương trỡnh phỏt thanh. Và đây chính là tính chất đa giọng của phát thanh. Nhưng tại sao trong phát thanh lại tồn tại tính song giọng, giải thích được điều này ta cũng phần nào lý giải được sự xuất hiện của tính đa giọng trong phát thanh hiện đại. Hạn chế lớn nhất của phỏt thanh mà ta có thể dễ nhận thấy là mức độ xác định của thông tin tiếp nhận. Do cách tiếp nhận duy nhất là nghe nên thông tin xuất hiện theo chuỗi âm thanh tuyến tính. Người nghe hoàn toàn bị động về trỡnh tự vận hành của dũng õm thanh. Chỉ cần một thời gian ngắn khụng chỳ ý là thớnh giả cú thể khụng nhớ , khụng hiểu gỡ về thụng tin mỡnh đang tiếp nhận. Hơn nữa, phát thanh là phương tiện thông tin đại chúng tiện dụng và thuận tiện hơn những loại hỡnh khỏc ở chỗ người nghe có thể tiếp nhận thông tin khi họ đang làm những công việc khác. Họ có thể vừa làm vừa nghe. Nhưng chính ưu điểm đó cũng là hạn chế đáng kể cho phát thanh vỡ sự mất tập trung chỳ ý của thớnh giả. Như vậy song giọng trong phát thanh ra đời như một tất yếu để giải quyết chính hạn chế trên. Dũng ngữ lưu trên phát thanh cứ không ngừng trôi chảy, và đi thẳng từ đầu đến cuối, dù trong nội dung của thông tin vẫn có điểm nhấn, lên xuống nhưng cũng khiến cho thính giả rất dễ mất đi sự chú ý, mà người ta hay ví là “ buồn ngủ”. Chính vỡ vậy để dũng chảy õm thanh ấy lưu lại được trong trí nhớ hay ít nhất là lôi kéo được sự tập trung của thính giả vào vấn đề đang trỡnh bày cần cú sự xuất hiện của song giọng. Lý do thứ 2 là mỗi khi đổi giọng là một lần thông báo cho thính giả biết là đó chuyển sang tin khỏc, từ chương trỡnh sang chương trỡnh khỏc hay ớt ra là việc đưa ra một khía cạnh khác của vấn đề. Nhưng một vấn đề đặt ra là tại sao trong phát thanh hiện đại lại không duy trỡ song giọng như phát thanh truyền thống ( giọng của 2 PTV chuyên nghiệp, 1 nam, 1 nữ) mà cần đến đa giọng ( giọng của PTV chuyên nghiệp, giọng BTV, giọng PV và của công chúng) . Sự thực thỡ vài năm gần đây, đa giọng đó hiện hữu trờn làn súng của Đài Tiếng nói Việt Nam như một tất yếu. Chất giọng của từng người như thế nào là hợp lý Ngụn ngữ ( lời nói) tự nhiên là một phương tiện hoàn hảo nhất, đáng tin cậy nhất và cũng đặc biệt người nhất, đặc biệt xó hội nhất trong giao tiếp thụng tin. Khụng cú một hệ thụng tớn hiệu nào khỏc cú thể so sỏnh với ngụn ngữ khi núi, làm chức năng là phương tiện giao tiếp thụng tin. Dưới góc độ của lý thuyết thụng tin, lời núi là một chuỗi ngẫu nhiờn trong đó người nghe dựa vào những gỡ đó nhận được để dự đoán những gỡ đang chờ đợi. Lời nói không chỉ có tính chất thông báo mà cũn bộc lộ những sắc thỏi nhất định nào đó. Lời nói chiếm một tỉ lệ lớn trong âm thanh tổng hợp , đây là dạng ký hiệu đặc trưng nhất tạo ra sự khác biệt cơ bản giữa báo phát thanh Trong phát thanh, khi nội dung được trải ra trên giấy xong, nghĩa là văn bản phát thanh đó hoàn tất thỡ điều đó mới được nửa công việc. Chất lượng, hiệu quả của chương trỡnh cũn được quyết định bởi công đoạn cuối cùng là thể hiện bằng giọng của phát thanh viên “ Nhiều lúc giọng đọc trở thành đôi cánh chắp cho bài viết bay lên”. Trong những năm tháng chống Mỹ, hàng triệu thính giả Việt Nam háo hức đợi chờ những mẩu tin chiến thắng, những bài xó luận hào hựng, tha thiết với giọng đọc của nghệ sĩ Việt Khoa, Kiên Cường. Thính giả miền Nam không thể quên giọng nữ Nam Bộ duyên dáng trữ tỡnh của Lan Hương đem theo tỡnh cảm nồng ấm, tin tưởng sẻ chia của miền Bắc vượt sông Bến Hải đến với miền Nam yêu dấu. Đặc biệt, ấn tượng sâu đậm nhất đối với thính giả là giọng đọc mượt mà , ấm áp , vô cùng quyến rũ của Nghệ sĩ nhân dân Tuyết Mai. Vào nghề với một chất giọng trẻ trung, có hồn, gần với đời sống, một giọng “trời phú”, một chất giọng vừa vang , vừa ấm, trường hơi, lại rất truyền cảm. Và cho đến giờ, nhiều thính giả như vẫn cũn nghe õm vang bờn tai giọng núi trầm ấm, nồng nàn của Việt Khoa, người nghệ sĩ chân chính với trái tim rung cảm và tinh thần trỏch nhiệm hiếm thấy. Đọc trên sóng phát thanh đó được các lớp phát thanh viên nâng lên thành một nghệ thuật. Đọc nghệ thuật với tốc độ đọc, nhịp điệu đọc hợp lý điều đó hoàn toàn cú thể luyện tập được nhưng chắc chắn: chất giọng lại là vấn đề phụ thuộc phần lớn vào sự “thiên phú” may mắn. Trong thời kỳ đầu, Radio với “ khái niệm cổ họng dây”, phát thanh viên phải là người phát âm rừ ràng, núi năng hoàn hảo với chất giọng dày, sâu, mà chứa đầy quyền lực. Cú một cõu chuyện khỏ hay về giọng núi phát thanh như sau: Một phát thanh viên người Mỹ nhớ lại, ông đó mong muốn như thế nào để có thể trở thành một trong số người nổi tiếng nhất lúc bấy giờ là những phát thanh viên hoặc Disjockey. Nhưng ông đó bị chờ rằng giọng đọc của ông ta không đủ độ sâu đối với mốt đang thịnh hành. Và một việc xảy ra, ụng ta bị cảm và giọng ụng ta trầm xuống quóng tỏm, ụng ta tham gia vào một buổi thử giọng rất thành cụng với giọng cổ họng và đó nhận được việc làm nhưng sau đó ông ta bị mất việc vỡ ụng ta đó khỏi bệnh và chất giọng khụng cũn phự hợp. Kỹ thuật phát thanh truyền thống lạc hậu, không có các thiết bị tăng âm, điều chỉnh âm thanh hiện đại, hiệu quả âm thanh phát sóng phụ thuộc rất lớn vào chất giọng của phát thanh viên : chất giọng to, rừ ràng, rành mạch. Phát thanh hiện đại với sự hỗ trợ đắc lực của các thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại đó dần dần thay đổi phương thức truyền âm thanh trên sóng. Âm thanh hay hơn, trung thực hơn, giọng của các PTV, BTV, PV, và công chúng được lọc qua các thiết bị máy móc trở nên hay hơn, tốc độ nhịp điệu cùng chất giọng cũng hay hơn. Đặc biệt với tớnh chất nhanh nhạy, mở rộng các chương trỡnh phỏt thanh thỡ chất giọng tuy khụng cũn là vấn đề được xem nặng nhưng vẫn là tâm điểm chú ý của những người quản lý chất lượng âm thanh. Đài Tiếng nói Việt Nam có những yêu cầu khác nhau về chất giọng như sau ( trong chương trỡnh thời sự) Với cỏc PTV chuyờn nghiệp, yờu cầu về chất giọng là cao nhất. Với các BTV, PV cũng được thử giọng để có những đánh giá chính xác nhất về chất giọng, từ đó phân loại cấp bậc theo thứ tự A, B , C…để đi tới quyết định giọng đó có được lên sóng hay không. Với cụng chỳng, việc kiểm soát chất lượng là rất khó, tuy nhiên cũng có nhưng tiêu chí bắt buộc khi giọng của công chúng lên sóng ( không ngọng, khụng núi lắp, lỗi, dễ nghe…). Hiện nay, phong cách được ưa chuộng là “ giao tiếp trên sóng”. Điều quan trọng là khả năng giải thích thông tin mà phát thanh viên (PTV) đang cố gắng truyền tải đến người nghe thông tin đó một cách tự nhiên và nhiệt tỡnh. Trong các chương trỡnh thời sự hiện nay của Đài tiếng nói Việt nam, chúng ta vẫn bắt gặp những giọng đọc quen thuộc của các phát thanh viên : Sĩ Khánh, Tuấn Linh, Việt Anh, Việt Hùng, Hùng Sơn, Vân Anh. Một lớp phát thanh viên mới về cơ bản đó hoàn thành thành xuất sắc nhiệm vụ của mỡnh, tạo nền tảng tiếng vang cho Đài Tiếng nói Việt nam đi vào lũng cụng chỳng một thời. Phỏt thanh viờn mới với chất giọng trẻ trung, mang đậm hơi thở thời đại đó đem đến cho chương trỡnh một sức sống mới. 2.3. Mối quan hệ giữa người trỡnh bày phỏt thanh với người chuẩn bị phát thanh Văn bản phát thanh Văn bản phát thanh là một cơ sở không thể thiếu cho người làm phát thanh. Có thể ví “văn bản phát thanh” như một bản nhạc, mà phát thanh viên, người đọc là những nghệ sĩ thể hiện. Hai yếu tố, văn bản phát thanh và cách thể hiện là 2 quá trỡnh nối tiếp nhau, cú quan hệ chặt chẽ. Hiện nay, văn bản phát thanh truyền thống ít nhất bao gồm các loại sau đây : Văn bản do phóng viên, biờn tập viờn tự tạo lập. Văn bản lấy từ báo in. Văn bản là những văn kiện có sẵn ( chẳng hạn các văn bản luật, nghị định, thông cáo, chỉ thị…). Văn bản là những bản tin quốc tế đối nội được nhận từ Thông tấn xó hoặc do chớnh biờn tập viờn thụng tấn của đài phát thanh chuyển dịch. Văn bản do cộng tác viên gửi tới. Dù đọc hay nói thỡ cỏc phỏt thanh viờn, biờn tập viờn, cũng phải dựa vào văn bản phát thanh. Vỡ thế, việc viết cho phát thanh là một vấn đề được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan tâm, và cũng có không ít bài viết xoay quanh vấn đề này. Chúng tôi xin mạn phép được tóm tắt lại những ý kiến trờn thành một “ cẩm nang cơ sở cho việc viết văn bản phát thanh”. 2.3.2. Mối liên hệ giữa người chuẩn bị văn bản phát thanh với người trỡnh bày phỏt thanh. Ở đây, tôi xin phép chỉ đề cập tới văn bản phát thanh dùng cho phát thanh viên, biên tập viên và phóng viên. Theo chúng tôi, ngoài loại văn bản chính thức này, cũn cú một loại văn bản khác, đó là văn bản phát thanh của công chúng. Bởi bên cạnh việc phỏng vấn và trả lời trực tiếp tại hiện trường, thỡ một số cuộc phỏng vấn, đặc biệt là phỏng vấn cỏc chuyờn gia, hoặc lời khuyờn của chuyờn gia thỡ thường có một sự chuẩn bị trước. Hiện nay, tụi cũng chưa tỡm thấy một bài viết nào đề cập tới vấn đề này, và tôi cũng không có điều kiện nghiên cứu sâu hơn vấn đề này nên mối quan hệ của văn bản phát thanh ở đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến các văn bản phát thanh chính thức, truyền thống. Thực chất, khi nói đến mối quan hệ giữa văn bản phát thanh và người trỡnh bày văn bản không phải là một vấn đề mới và bản thân, mệnh đề này cũng được coi như một tất yếu. Nhưng để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mỡnh , tụi muốn chỉ ra mối quan hệ giữa hai yếu tố để nhằm chỉ rừ vai trũ của nú trong việc nõng cao chất lượng thể hiện trên sóng phát thanh. Có thể nói, những người chuẩn bị làm văn bản phát thanh phải như một nhà dự báo, dự báo về đối tượng tiếp nhận để có văn phong phù hợp, dự báo về tâm lý tiếp nhận thụng tin, dự báo về giọng đọc của phát thanh viên, thậm chí phải dự báo về nhịp điệu của bản tin, rồi nhịp điệu của cả chương trỡnh. Một văn bản phát thanh tốt sẽ giúp người đọc nhanh chóng nắm bắt được nội dung thông tin, và dễ dàng chọn lựa cách thể hiện phù hợp. Nhất là trong chương trỡnh phỏt thanh đa giọng, việc chuẩn bị văn bản phát thanh càng cần cẩn thận và tỷ mỷ hơn. Với nhiều loại giọng, nhiều địa phương, mỗi văn bản phát thanh cùng người thể hiện đóng vai trũ như một nhạc cụ , một giọng hát trong cả một bản hũa tấu. Tớnh hợp lý trong việc sắp xếp ngụn từ, cõu, ngắt nhịp qua giọng đọc thể hiện đều có thể là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận thông tin của thính giả. Mỗi người làm văn bản phát thanh theo bài viết “Viết tin cho phát thanh” phải đặt mỡnh vào một người đang vừa lái xe vừa nghe radio, một bác nông dân vừa xỉa răng vừa ôm cái tran-xi-to ngồi dưới bụi tre. Và bản thân mỗi phát thanh viên cũng đều ý thức được mỗi dũng, mỗi trang viết của phúng viờn, biờn tập viờn đều là một sự lao động nghiêm túc. Theo nghệ sĩ ưu tú Hoàng Yến, phát thanh viên không thể chỉ đọc đơn thuần mà mỗi phát thanh viên phải là chiếc cầu nối với bạn nghe đài để tái tạo , để những con số, những tỡnh đời, tỡnh người ấy qua làn sóng đánh thức một kỷ niệm, chạm vào một nỗi đau, tạo nên một nhận thức…để rồi càng tin và yêu cuộc đời hơn. Và khi bước chân vào phũng thu thỡ mọi tõm trớ phải dồn vào tỏc phẩm để cảm nhận ngũi bỳt của tỏc giả mà đi theo. Qua mọt vài dịp gặp gỡ những người làm ở Ban thời sự Đài truyền hỡnh Việt Nam, khi hỏi về việc chuẩn bị văn bản phát thanh, ngoài những chỳ ý về nội dung, kỹ thuật, thỡ liệu cú quan tõm đến tâm lý của người thể hiện và cả khỏn giả tiếp nhận? Tôi đó thu lại được một số ý kiến quay xung quanh vấn đề này. Bản thõn mỗi người tổ chức một văn bản phát thanh, bên cạnh việc quan tâm đến nội dung thông tin, cũn phải luụn ghi nhớ tớnh đặc thù của văn bản là dùng để nói, thế nên tất nhiên không thể thiếu mối quan hệ với người thể hiện, có như thế một tác phẩm phát thanh mới “ đầu xuôi đuôi lọt” được. Nói về tâm lý thớnh giả, thỡ những người làm phát thanh cũng khẳng định họ đang cố gắng hết sức để có những thay đổi cho phù hợp với tâm lý của thính giả hiện đại, mà trước tiên là sự thay đổi trong cách viết tin. Một tin không nhất thiết phải mở đầu bằng ngày giờ, địa điểm như trước đây nữa mà lối viết tin theo hỡnh tam giỏc ngược được triệt để áp dụng. Thế nhưng, theo họ thỡ một văn bản phát thanh quan trọng nhất vẫn là ở nội dung thông tin. Một tờ giấy đơn giản sẽ không là gỡ nhưng khi tờ giấy ấy qua giọng đọc trên sóng là đến với hành triệu thính giả, chính vỡ thế mỗi văn bản nên là sản phẩm tâm huyết của tác giả, phải có sự tính toán và chăm chút cẩn thận mặc dù phát thanh vẫn phải chạy theo tớnh thời sự, núng hổi. Nghệ sĩ Hoàng Yến đó kể lại cho đến giờ chị vẫn không quên là khung cảnh làm việc thời chiến, là dũng chữ trước phũng thu thanh: “ Hàng triệu thính giả đang nghe ta”. Đó là một yêu cầu không dễ với những người làm phát thanh nhưng đó là việc cần làm và phải làm, đặc biệt là đối với phát thanh hiện đại, bởi hiện nay có rất nhiều phương tiện truyền thông đại chúng có tính cạnh tranh gay gắt với phát thanh. Phát thanh cần đầu tư nhiều hơn, ngoài phương tiện kỹ thuật, quan trọng không kém là nội dung thông tin, trước hết đó là văn bản, bước đầu tiên có tính quyết định đối với một chương trỡnh phỏt thanh. III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giọng đọc trong chương trỡnh phỏt thanh. 1.Việc lựa chọn giọng và chất lượng giọng đọc Phần trên của bài tiểu luận đó đề cập đến một số khía cạnh cơ bản quan trọng trong nghiên cứu về giọng nói. Căn cứ vào đó, bài viết tiếp tục đưa ra một vài gợi ý cú tớnh thực tế và khả năng áp dụng cao nhằm khắc phục, củng cố và nâng cao hiệu quả trên từng mặt cơ bản của giọng nói như đó phõn tớch ở trờn. - Thứ nhất : Xỏc lập tiờu chớ lựa chọn giọng lờn súng cho một chương trỡnh phỏt thanh hiện đại: Hiện nay với sự tham gia của cụng chỳng, biờn tập viờn, phúng viên vào chương trỡnh phỏt thanh, đây là một bước tiến mới nhưng cũng tất nhiên nảy sinh những khó khăn mới, việc đầu tiên là lựa chọn giọng nói. Thực tế Đài tiếng nói Việt Nam không phải là không có một quy chuẩn cho việc lựa chọn giọng lên sóng, nhưng một tiêu chí cụ thể, đặc biệt dành cho công chúng, biên tập viên, phóng viên vẫn là việc cần làm và nên làm. Ta vẫn nên dựa vào cách quen thuộc, đó là chọn giọng chuẩn toàn quốc, và giọng chuẩn theo 3 miền : Bắc, Trung, Nam. Giọng Hà Nội là giọng chuẩn cho toàn quốc và cho miền Bắc, giọng Huế là giọng chuẩn cho mỡờn Trung, và giọng thành phố Hồ Chớ Minh là giọng chuẩn cho miền Nam. Ở đây, tôi cũng xin nêu ra một số yêu cầu cơ bản về chất giọng trong phát thanh + Rừ ràng, nghe được. Có người đó nhận định giọng nói là một nhạc cụ gió và rất nhạy cảm, khi lên sóng nó chịu nhiều áp lực và điều kiện, trong đó chịu ảnh hưởng nhiều nhất vẫn là sự căng thẳng về tinh thần. + Giọng đọc phải có nhạc điệu + Chất giọng ( âm sắc, cường độ, cao độ) : phải rừ ràng, khụng chúi tai và khụng cú giọng mũi. Trong đó âm sắc được hỡnh thành do phổ tần số của tớn hiệu, sự khỏc biệt về phổ sẽ tạo nờn những õm sắc khỏc nhau. Cường độ cho ta cảm giác về to, nhỏ, cảm giác về độ rừ của õm thanh. Cao độ : Tần số âm quyết định độ cao âm thanh theo mối quan hệ tỷ lệ thuận. + Giọng đọc : phải có phong cách , là cách mà người đọc thể hiện tính cách của mỡnh , cỏch từ đó tỏa ra sự tin tưởng, thân mật và có trọng lượng. + Tốc độ nói : vừa phải, tốt nhất nên luyện tốc độ đọc như kể chuyện với người bạn của mỡnh, đặc biệt phải nhấn mạnh từ chốt. + Điều chỉnh âm lượng, độ cao giọng nói. Sự thay đổi độ cao và tông giọng đều giúp duy trỡ sự quan tõm chỳ ý của người nghe, giúp tạo cho ngôn ngữ một sắc màu đúng cách, giỳp truyền tải thụng tin, trỏnh cỏch thể hiện nhàm chỏn, tẻ nhạt. Giọng núi là một cụng cụ tuyệt vời để chuyển tải thông điệp, vỡ thế ụng G Macconi, người đó cú nhiều cống hiến cho sự phỏt triển của ngành Phỏt thanh đó gọi giọng phỏt thanh là “ giọng núi của Thượng đế”. Phần lớn thính giả vẫn thích nghe giọng chuẩn là giọng Hà Nội. Điều này dễ hiểu bởi vỡ ngụn ngữ trờn sóng phát thanh phải là ngôn ngữ chuẩn mực quốc gia ( tiếng nói của thủ đô nước đó). Ví dụ : tiếng Pháp với chuẩn ở Pari, tiếng Nga với chuẩn ở Matxcơva. Cũn tiếng Việt, giọng chuẩn là giọng đọc Hà Nội. Cũng dựa trờn thúi quen nghe của thớnh giả thỡ thụng thường đa phần thính giả thích nghe ít giọng vỡ khi nhiều giọng, phần lớn thớnh giả đánh giá là khó nghe. - Thứ hai : Tạo sự “ phối giọng” tốt nhất giữa các giọng đọc trên sóng, của phỏt thanh viờn, biờn tập viờn, ít nhất là về âm sắc và tốc độ trong một chương trỡnh phỏt thanh hiện đại. Bản thân hiện nay, Đài Tiếng nói Việt nam không thể nói là khụng chỳ ý tới vấn đề này, việc sắp đặt các giọng trong một chương trỡnh cũng tuõn theo một vài nguyờn tắc nhất định, đặc biệt là sự cùng tông giữa các giọng đọc nhằm tránh sự dị biệt quá lớn. Đài cũng chú ý đến việc chọn giọng đọc phù hợp với nội dung thông tin. Bản thân ngôn ngữ, lời nói cũng là một loại “ âm nhạc tự nhiên”, và để hũa õm những loại õm nhạc, những “ giọng hỏt’ tạo nờn nhịp điệu hoàn hảo cho chương trỡnh là điều không dễ ( tôi xin nhấn mạnh tới nhịp điệu tổng thể của cả chương trỡnh ). Và cõu hỏi đặt ra là thế nào là một nhịp điệu chuẩn, một “bản hũa õm” tốt? Tụi đó cú cơ hội gặp trực tiếp những người làm phát thanh và đưa ra câu hỏi này. Và cơ sở để chứng minh điều đó là những biểu đồ tần suất âm thanh, trên thực tế đó tồn tại những quy chuẩn nhất định về giọng nói bằng những thông số kỹ thuật để có thể chỉnh sửa giọng nói đó. Nhưng rất tiếc, tôi cũng chưa nhận được câu trả lời về một biểu đồ chuẩn. Dựa trờn kinh nghiệm thỡ một biểu đồ tốt là một biểu đồ lên xuống đều đặn, giống biểu đồ hỡnh sin. Nhưng làm thế nào để bao quát được cả bản “ hũa õm”của chương trỡnh thỡ đến nay vẫn chưa tỡm được câu trả lời xác đáng. Bên cạnh đó, do tính chất chương trỡnh khỏc nhau, cú chương trỡnh thiờn về thời sự, cú chương trỡnh lại cú nhiều hơn tính giải trí, hoặc sôi nổi, hoặc trữ tỡnh. Người đọc phát thanh cần linh hoạt trong việc xử lý thụng tin, xử lý và lựa chọn giọng đọc phù hợp. Không thể đọc một bài thơ trữ tỡnh bằng giọng đọc tường thuật một buổi mít ting sôi nổi. Hóy đọc như khi ta kể chuyện cho người khác nghe, muốn truyền tải thông tin ấy bằng tỡnh cảm như thế nào, gây cảm giác hay hứng thú gỡ cho người nghe, để từ đó lựa chọn cách đọc cho phù hợp. -Thứ ba : Vấn đề giọng nam và nữ trên sóng : Theo kết quả khảo sát mà chúng tôi tiến hành trong chương trỡnh thời sự của Đài tiếng nói Việt Nam, thỡ 73% nam giới xuất hiện trong phỏng vấn, và nữ giới chỉ chiếm 27%. Trong khi đó, theo một số tài liệu điều tra, giọng đọc được thính giả ưa chuộng nhất lại là giọng nữ. Như vậy, Đài tiếng nói cần có sự điều chỉnh nhanh chóng về vấn đề cân bằng giới trong truyền thông, nhằm đáp ứng nhu cầu và thói quen của công chúng. Theo Phụ nữ hiện nay chiếm 52% dân số thế giới vẫn đang bị bỏ quên và cách xa vị trí so với nam giới trong lĩnh vực truyền thông và thông tin. Theo kết quả nghiên cứu năm 2005 dựa vào các chương trỡnh truyền thụng như báo, đài, truyền hỡnh tại 76 quốc gia với 13.000 phiếu khảo sỏt thỡ chỉ cú 21% đối tượng được phỏng vấn lấy tin hay chủ đề của tin tức là về phụ nữ ( năm 1995 là 17%, năm 2000 là 31% ). Phụ nữ chỉ là trung tâm của 10% tin tức trên toàn cầu, phụ nữ được miêu tả là “nạn nhân” của tin tức nhiều gấp 2 lần nam giới, chỉ có 29% nội dung thông tin truyền thông là do phụ nữ viết. Nhà điều tra cũng đưa ra dự báo, với tốc độ này thỡ phải đến năm 2060, tỉ lệ nữ giới xuất hiện trong truyền thông mới đạt 50%. 2 .Vai trũ của văn bản phát thanh trong nâng cao chất lượng giọng đọc trong chương trỡnh phỏt thanh Để nâng cao hiệu quả giọng đọc, cần chú ý đến khâu văn bản phát thanh, đó có thể coi như một bản nhạc trên giấy. Nói như Geoffrey Weekes, một người trỡnh bày trước sóng nổi tiếng “ Hóy sử dụng giọng núi của bạn như là một nhạc cụ và bạn chơi âm điệu với nhạc cụ đó”. .Cẩm nang viết cho phỏt thanh Ngôn ngữ của văn bản phát thanh Yếu tố ngôn ngữ đóng một vai trũ to lớn trong việc hỡnh thành văn bản phát thanh. Tuy nhiên, mỗi loại văn bản trên do nội dung thông tin chế định, có những đặc trưng ngôn ngữ khu biệt mà người tạo lập văn bản phát thanh ( bao gồm cả biên tập văn bản ) phải nắm được và biết cách xử lý cho phự hợp. Mặt khỏc, mỗi loại văn bản lại có đối tượng thính giả khác nhau nên khác nhau không chỉ về nội dung thông tin mà cũn cỏch thức và văn phong thể hiện. Điều này đũi hỏi cỏc biờn tập viờn phỏt thanh phải tỡm kiếm ngụn ngữ thể hiện sao cho hiệu quả nhất. - Về độ dài câu trong văn bản phát thanh : đây là vấn đề có vai trũ quyết định hàng đầu đến nghệ thuật đọc của phát thanh viên và tiếp thu của thính giả. Câu trong văn bản phát thanh phải ngắn gọn và theo Nguyễn Đức Tồn, dựa vào khảo sát các văn bản của Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất, câu trong văn bản phát thanh không nên dài quá 30 âm tiết và từ 15-20 âm tiết là vừa. Cũn Nguyễn Bớch Đào, thông qua khảo sát trực tiếp các văn bản phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam đó chỉ ra số lượng câu được sử dụng nhiều nhất là loại câu dài từ 21-40 tiếng. Chú ý : độ dài câu không thể bỏ qua yêu cầu về mức độ dễ đọc. - Về cấu trỳc cõu : Cấu trỳc cõu phải đơn giản và dễ tiếp nhận nhất, quan trọng là ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTBC 32.doc