Tiểu luận Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp

Nền KTTT định hướng XHCN nó cũng là nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhưng nền KTTT theo địng hướng XHCN nó có điểm khác biệt hơn với nền KTTT TBCN và cũng có thể đây là mặt tích cực hơn của nền KTTT theo định hướng XHCN. Mặt tích cực đó là trong nền KTTT theo định hướng XHCN có sự phân công lao động công bằng hơn. Những thành phần trong nền KTTT theo định hướng XHCN được hưởng sự công bằng hơn trong các hoạt động kinh tế. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Đồng thời ở các nước XHCN sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế mạnh hơn. Nền kinh tế phát triển đã xây dựng nên các khu công nghiệp lớn, xây dựng nên cơ sở hạ tầng tốt. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế đến nay các nước nhà đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển vượt bậc. Từ những nước có nền kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước TBCN đến nay các nước này gần như đã đuổi kịp các nước TBCN. Không chỉ đuổi kịp mà nền kinh tế của các nước này còn có sự phát triển kinh tế ổn định hơn so với các nước TBCN. Sự ổn định đó đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào thị trường của các nước này từ đó thu hút được nhiều nguồn đầu tư hơn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3425 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Ưu điểm: Sau khi kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa cũ, cả nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức rộng rãi ở nông thôn cũng như thành thị. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa cũ mô hình kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được tính ưu việt của nó. Từ một nền kinh tê nông nghiệp lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá. Ta đã tập trung được vào tay một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền vốn để phát triển ổn định về kinh tế. Vào những năm đầu của thập kỷ ở miền Bắc đã có những chuyển biến về kinh tế xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế tự cung tự cấp vốn có của ta lúc đó, đồng thời cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến lúc đó. b. Nhược điểm: Sau ngày giải phóng, miền Nam bức tranh về hiện trạng kinh tế đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan, tồn tại sau năm 1975, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ chương xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trong phạm vi cả nước. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Những sai lầm cơ bản là: Ta đã thực hiên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng. Thực hiện việc phân phối lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép: Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vữa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lưa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động. 2. Sự cần thiết khách quan phải chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội ở nước ta. Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man). Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài.. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V. I. Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. 3. Sự cần thiết tất yếu phải chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đưa nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại. Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với thị trường thế giới. Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế. Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Tuy vậy, nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý. Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã hội). Phần 2: Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta và những giai pháp phất triển kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay Để hiểu rõ hay có một cách nhận xét khách quan nền kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta phải xem xét các đặc điểm kinh tế thị trường thế giới. 1. Đặc điểm chung: Kinh tế thị trường là hoạt động kinh tế của con người đã trải qua nhiều thời đại. Kinh tế thị trường đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử kinh tế nhưng KTTT chỉ phát triển mạnh mẽ, phong phú trong vài trăm năm trở lại đây. Nền KTTT đó là một nền kinh tế phát triển, có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên nền kinh tế nào cũng có những mặt trái của nó. Và ở đây, mặt trái của KTTT là tình trạng bất công trong xã hội còn cao, sự phân hoá giai cấp trong xã hội còn diễn ra sâu sắc, tệ nạn xã hội ngày càng nhiều, đồng thời cùng với sự phát triển kinh tế thì tình trạng lạm phát sẽ bị đẩy nên cao. Tại châu âu mô hình kinh tế của Thuỵ Điển rất đáng chú ý. Vốn là một quốc gia nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu nhưng chỉ trong một thơì gian ngắn thì thuỵ điển đã trở thành một nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, ở Châu á Trung Quốc cũng là một nước đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường và đã có sự tăng trưởng kinh tế đáng kể. Còn đối với Nga đầu tiên là một nước đi theo định hướng XHCN và đã có một nền kinh tế vào loại phát triển của thế giới . Nhưng từ khi đi theo hướng phát triển của các nước TBCN thì nền kinh tế của nước này đã lâm vào khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đã giảm sút rất nhiều. Hiện nay nước Nga tuy đã thoát khỏi khủng hoảng nhưng nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng chậm phát triển. KTTT ở Mỹ có những đặc trưnglà:do tiềm lưc kinh tế của Mỹ rất lớn và khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế là rất lớn nên mức độ can thiệp của nhà nước vào các thành phần kinh tế là thấp hơn so với các nước khác trên thế giới. Tuy nhiên nhà nước ở đây lại tham gia rất mạnh mẽ vào khu vực kinh tế đối ngoại. Không chỉ có vậy nhà nước ở đây đã hỗ trợ rất mạnh mẽ cho các công ty của Mỹ xâm nhâp vào thị trường kinh tế của các nước khác. Từ đó đem lại các nguồn lợi cho Mỹ. . 2. Đặc điểm của KTTT hiện đại. Tuy nền KTTT đã ra đời từ rất lâu nhưng nền KTTT hiện đại mới ra đời từ những năm 60 của thế kỷ XX với đặc trưng là nhà nước can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Với nền KTTT đã ra đời trước đó nó chỉ vận động theo cơ chế thị trường chứ không có sự tham gia quản lí của nhà nước. Nhà nước khi đó chỉ có chức năng truyền thống của nhà nước pháp quyền. Đó là: Bảo vệ quuyền sở hữu của các nhà kinh doanh. Nhà nước bảo đảm an ninh, chính trị, quốc phòng, an toàn xã hội tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. Sử lí các vụ tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật. Đến thời kỳ KTTT hiện đại thì nhà nước tham gia vào điều tiết nền kinh tế mạnh mẽ. Và công cụ điều tiết chủ yếu là các chính sách tài khoá, sách chính tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại như:thuế, lãi suất chiết khấu. . . Trong nền KTTT hiện đại sự can thiệp của nhà nước được thể hiện ở các mặt sau: Tại một số nước, hàng hoá công cộng do lượng vốn đầu tư lớn, lợi nhuận ít nên các nhà đầu tư tư nhân không quan tâm. Song do các loại hàng hoá này rất quan trọng cho nên nhà nước phải đứng ra đầu tư sản xuất các loại hàng hoá này. Đồng thời đối với những công trình lớn mang tầm cỡ quốc gia như sở cơ hạ tầng, cầu đường, bến cảng thì nhà nước phải trực tiếp đầu tư vì kinh doanh vào các khu vực này nguồn vốn phải rất lớn chỉ có nhà nước mới đáp ứng được. Khi nhà nước tham gia điều tiết nền kinh tế thì các vấn đề công bằng xã hội được nhà nước quan tâm hơn. Với sự phát triển của KTTT đã làm thay đổi nền kinh tế nhưng những mặt trái của nó cũng đã bắt đầu nảy sinh. Những mặt trái đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát gia tăng, các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều hơn. Với vai trò của mình nhà nước nhà nước tham gia vào điều tiết kinh tế nhằm ổn định nền kinh tế để hạn chế tình trạng lạm phát và thất nghiệp.. Ngày nay trong kinh tế đối ngoại vai trò của nhà nước là rất lớn. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ ngày càng tăng nên trong nền KTTT hiện nay, Đối với các nước đang phát triển ở châu á và Đông Nam á có một đặc điểm khác biệt đó là sự tham gia mạnh mẽ của nhà nước vào nền kinh tế. Nhờ sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế mà nền kinh tế của những nước này đã có những bước phát triển lớn. Đối với những nước này còn có một đặc điểm nữa đó là trong quá trình phát triển kinh tế đã hình thành nên khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nước. Đối với các nước này đây là một khu vực tất yếu cần phải có. Đây là khu vực mà nhà nước trực tiếp đầu tư vào. Song nhìn chung khu vực này hoạt động không có hiệu quả. Kết quả này là do bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém năng động. Và đây là khu vực của nhà nước đầu tư nên chúng không phải chịu sức ép cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời sự kém hiệu quả đó còn do có sự tham nhũng trong bộ máy quản lý. Trước tình trạng hoạt động không có hiêu quả này thì nhà nước phải có sự điều chỉnh thì nền kinh tế mới phát triển được. Sự điều chỉnh phải bằng cách giao cho tư nhân quản lý khu vực kinh tế này. Nhà nước chỉ nên đầu tư vào một số lĩnh vực thực sự quan trọng như xây dựng cơ sở hạ tầng, thông tin và một số nghành công nghiệp quan trọng, quốc phòng. 3. Những ưu điểm và nhược điểm của nền KTTT. Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm. Nền KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau. Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt bậc. Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát triển hơn, con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn.. Những mặt tiêu cực của nền KTTT là: Do quá trình hoạt động sản xuất cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng do năng xuất lao động cao cộng với việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt. Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới vấn đề môi trường. các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức, lối sống trong dân. Ngày nay do mức sống của con người được nâng cao, con người dễ tiếp xúc đối với những loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân. . . 4. KTTT định hướng XHCN. Để nghiên cứu đầy đủ hơn về KTTT ta nghiên cứu nghiên cứu nền KTTT theo định hướng XHCN. Nền KTTT định hướng XHCN nó cũng là nền KTTT với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhưng nền KTTT theo địng hướng XHCN nó có điểm khác biệt hơn với nền KTTT TBCN và cũng có thể đây là mặt tích cực hơn của nền KTTT theo định hướng XHCN. Mặt tích cực đó là trong nền KTTT theo định hướng XHCN có sự phân công lao động công bằng hơn. Những thành phần trong nền KTTT theo định hướng XHCN được hưởng sự công bằng hơn trong các hoạt động kinh tế. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn. Đồng thời ở các nước XHCN sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế mạnh hơn. Nền kinh tế phát triển đã xây dựng nên các khu công nghiệp lớn, xây dựng nên cơ sở hạ tầng tốt. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế đến nay các nước nhà đã xây dựng được một nền kinh tế phát triển vượt bậc. Từ những nước có nền kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước TBCN đến nay các nước này gần như đã đuổi kịp các nước TBCN. Không chỉ đuổi kịp mà nền kinh tế của các nước này còn có sự phát triển kinh tế ổn định hơn so với các nước TBCN. Sự ổn định đó đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào thị trường của các nước này từ đó thu hút được nhiều nguồn đầu tư hơn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn. Qua sự nghiên cứu trên ta thấy nền KTTT TBCN và nền KTTT theo định hướng XHCN đều tương đối giống nhau, nó chỉ có một số khác biệt mà đó là những đặc điểm riêng của mỗi nền kinh tế. B. Kinh tế thị trường định hướng XHCN. 1. Đặc điểm, bản chất của nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội xã hội chủ nghĩa). Thứ hai, nền kinh tế chúng ta là nền kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt đông sản xuất-kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế hàng hoá, KTTT sẽ chi phối các hoạt động kinh tế.. Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Thứ sáu: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc công tác đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong KTTT ở nước ta. Thứ bảy: Cần giải quyết mối quan hệ giữa tư bản (vốn) và lao động thông qua phân phối thu nhập trong KTTT định hướng XHCN. Cần có sự phân phối hợp lý để thúc đẩy hết khả năng lao động của mọi người dân trong xã hội. Trên đây là những đặc điểm chủ yếu của nền KTTTtheo định hướng XHCN ở Việt Nam. Bất kỳ một tác động nào tới chúng đều có sao để tạo điều kiện tốt nhất cho nền kinh tế nước ta phát triển. Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc ”. 2. So sánh kinh tế thị trường định hướng XHCN và KTTTcủa tư bản chủ nghĩa: Kinh tế thị trường XHCN ngoài những nét chung với KTTT tư bản chủ nghĩa như: một nền sản xuất hàng hoá với sự liên kết và trao đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ những quy luật như quy luật giá trị, quyluật cung cầu. . . kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa còn có những đặc trưng riêng của nó: Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất(TLSX) thì trái lại nền KTTT XHCN tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần nhưng nó dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, tức là sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nền kinh tế thị trường TBCN lấy phân phối theo TLSX và theo vốn làm hình thức phân phối chủ yếu, thì trong nền KTTT XHCN, quy luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ. Nếu nền KTTT TBCN phát triển theo hướng bất bình đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì KTTT XHCN phát triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của xã hội do nền KTTT TBCN tạo ra. Nếu nền KTTT TBCN dựa trên sự khai thác của các quốc gia, của các khu vực phát triển, đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các nước kém phát triển, thì nền KTTT XHCN dựa trên sự hợp tác và trao đỏi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới. 3. Những thành tựu đạt được sau khi nước ta chuyển đổi sang nền KTTT XHCN. 3. 1. Kinh tế tăng trưởng khá. T ổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Giá trị sản xuất nông, lâm ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5, 7%. Công nghiệp và xây dựng đã vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ. Nhịp độ sản xuất công nghiệp bình quân 13, 5% Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống. Giá trị các nghành dịch vụ tăng 6, 8%/năm. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực. Các cơ cấu ngành kinh tế đã từng bước dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3. 2. Văn hoá -xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. 3. 3. Tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường. 3. 4. Công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củnh cố. 3. 5. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt Từ mhững thành tựu trên đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đát nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc đọc lập dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín nước ta trên trường quốc tế. Những thành tựu trên nước ta đã đạt được là do: Một là, Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn. Hai là, Nhà nước có cố gắng lớn trong điều, hành quản lý. Ba là, Toàn dân và toàn quân phát huy lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động, sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam. 4. Những yếu kém khuyết điểm còn tồn tại trong nền kinh tế nước ta. 4. 1. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả sức cạnh tranh thấp. Ví dụ tình hình kinh tế nước ta trong những năm qua tăng trưởng chậm dần. Năm 1995 tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta là 9, 5%, năm 1997 còn 8, 2%, năm 1998còn 5, 8%. . . năng suất lao động giảm, chát lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành còc cao. Từ đó dẫn tới tình trạng sản phẩm nước ta không cạng tranh được với các mặt hàng nước ngoài. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị xâm hại nghiêm trọng. Hẹ thống nhân hàng nước ta còn yếu kém. . . 4. 2. Một số vấn đè văn hoá - xã hội bức xúc và găy gắt chậm được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao. 4. 3. Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động sức mạnh để phát triển. Các chính sách chưa đi sát vào thực tế với cuộc sống hàng ngày. Một số chính sách có xu hướng trở lại bao cấp. Một số quy định không phù hợp không được sửa đổi. 4. 4. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. tình trạng tham nhũng còn nhiều. Đại hội Đảng I X đã chỉ ra đầy đủ những nguyên nhân và nó bao gồm những nguyên nhân chính sau: Một là, việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Hai là, một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Ba là, cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Bốn là, công tác tư tưởng, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập. 5. Những thách thức cho nền KTTT XHCN ở Việt Nam. Từ những thành tựu và khó khăn trên đã đặt ra cho kinh tế Việt Nam những thách thức sau: Cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua đang gay ra những tác đọng bất lợi cho chúng ta. C. Các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Về lâu dài, những lỗ lực cải cách cần tiếp tục tập trungvào bốn trọng điểm sau: (1) Cải cách các doanh nghiệp nhà nước và thúc sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân;(2) Tạo một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả;(3) Phát triển kinh tế khu vực nông thôn;và (4) Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Thứ nhất, các doanh nghiệp nhà nước vẫn là một khu vực kinh tế hết sức quan trọng. Thứ hai, một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả là nhân tố vô cùng quan trọng cho quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam. Không có một hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, các nguồn vốn sẽ không được sử dụng một cách có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng yếu kém của Việt Nam càng trở nên suy yếu trong và sau khủng hoảng khu vực vừa qua. Thứ ba, với hơn 80% số dân sống ở nông thôn, phát triển nông thôn trở thành ưu tiên hàng đầu trong chương trình cải cách kinh tế Cuối cùng, cải tạo cơ sở hạ tầng, chủ yếu là phục hồi các cơ sở đang có, đã mang lại cho Việt Nam những thành tựu kinh tế xã hội quan trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều mặt chưa đáp ứng được nhu cầu. Nước ta, mức tiêu thụ điện vẫn còn ở mức thấp nhất thế giớ. Hệ thống giao thông đã quá cũ kỹ lạc hậu và trở nên quá tải. Hệ thống nước và hệ thống vệ sinh cống rãnh đòi hỏi nhiều vốn đầu tư nhiều hơn nữa để đáp ứng nhu cầu phát triển. Thêm vào đó, cần có khung pháp lý hoàn chỉnh để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tham gia trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng được cải thiện sẽ thúc đẩy tăng năng suất và chia sẻ lợi ích phát triển giữa thành thị và nông thôn. Kết luận Ngày nay con người đang được sống và làm việc trong một môi trường có nền khoa học kỹ thuật phát triển. Con người được sống và làm việc trong một môi trường tôt hơn trước rất nhiều. Trong thế kỷ XXI này con người cần phải xây dựng cho mình một nền kinh tế phát triển hơn để ngày càng cải thiện hơn điều kiện sống và làm việc của mình. Do vậy Đảng và nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35960.doc
Tài liệu liên quan