Tiểu luận Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam

Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, chẳng hạn khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Có hai phương pháp để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hoàn toàn không có (kể cả việc lập công ty ma). Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia.

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3229 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục đích gửi và rút tiền còn những tính năng khác của thẻ như thanh toán khi đi mua sắm, du lịch... thì ít người biết đến và sử dụng. Người dân vẫn chưa tin vào những tiện ích của việc thanh toán bằng thẻ, và họ cho rằng thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu "ăn chắc mặc bền" sẽ nhanh và tiện hơn. Ngay cả doanh nghiệp, đối tượng rất nhạy cảm đối với những thay đổi của xã hội cũng ít biết đến và sử dụng phương thức thanh toán này. Ông Lương Văn Sơn, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Công ty Cơ khí xây dựng nói, việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đem lại những tác hại nhất định như không an toàn, mất thời gian đi lại để thanh toán… những không mấy doanh nghiệp nhận thức được vấn đề này. Họ thường e ngại về tính an toàn khi sử dụng hình thức thanh toán khác. Khi giao dịch, các doanh nghiệp thường yêu cầu thanh toán bằng tiền mặt theo kiểu “tiền giao, cháo múc” và còn cho biết sẽ giảm giá nếu như đối tác thanh toán bằng tiền mặt. Ngoài ra,chính vì các ngân hàng không đâỷ mạnh các hoạt động marketing,quảng cáo và phát triển thương hiệu dẫn đến khách hàng dễ nhầm lẫn các sản phẩm của các ngân hàng với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch vụ mang thương hiệu này để đến với một sản phẩm có thương hiệu khác,làm thiệt hại đến lợi nhuận của các ngân hàng. Bên cạnh đó,chính vì thiếu thông tin về thanh toán điện tử mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp còn giữ thái độ e dè trong sủ dụng thẻ vì họ cho rằng sử dụng tiền mặt còn rẻ hơn sử dụng các hình thức thanh toán của ngân hàng.Trên thực tế chúng ta cũng phải thừa nhận rằng các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn duy trì chi phí thanh toán ở mức cao đối với các loại hình thanh toán,đặc biệt là thanh toán trong hệ thống liên ngân hàng.Điều này thể hiện ngay cả trong các chi phí thấy được như:phí phát hành thẻ,phí rút tiền..hay những chi phí ẩn như chi phí hao mòn giầy…Các thủ tục hành chính cũng phần nào gây những bất tiện nhất định cho khách hàng,như thủ tục lập tài khoản,tốn rất nhiều thời gian và nhiều thủ tục cho người tiêu dùng. 4)Do hệ thống luật pháp còn nhiều thiếu sót và đặc trưng riêng của nền kinh tế đang phát triển: Thứ nhất,nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển: đây là nền kinh tế xuất phát từ đặc điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo quy mô nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng tiếp nhận phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt là rất khó khăn. Ngoài ra, một bộ phận rất lớn của nền kinh tế không chính thức là kinh tế ngầm liên quan tới hoạt động buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại, tham nhũng..., luồng luân chuyển tiền tệ phục vụ các hoạt động này có thể rất lớn. Đối với những người tham gia các giao dịch này, cho dù phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt có thuận tiện thì đó vẫn không phải là phương tiện thanh toán được lựa chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu nguồn gốc giao dịch và danh tính của đối tượng tham gia. Thứ hai,hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù trong thời gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải thiện nhiều, song vẫn được đánh giá là chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Ví dụ như đối với giao dịch điện tử, chưa đủ cơ sở để các ngân hàng tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo được một cơ chế tổng hợp điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử trong ngành ngân hàng, chưa có sự chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Ngày 19 tháng 11 năm 2005 vừa qua Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, đây là một bước tiến mới mang tính đột phá của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển kinh tế xã hội. Nó tạo nên một nền tảng hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để luật này đi vào cuộc sống là cả một quá trình phấn đấu không chỉ của riêng ngành ngân hàng mà của toàn xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng. Một số văn bản còn thể hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, với tốc độ phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin và sự ra đời của hàng loạt các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nền tảng pháp lý cần được hoàn chỉnh gấp để bao hàm cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ...Ngoài ra còn thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành hữu quan, chính quyền địa phương các cấp trong việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Vẫn còn nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam,đánh giá chính xác nguyên nhân sẽ giúp ta tìm ra được giải pháp cho vấn đề này. CHƯƠNG II:Thiệt hại của nền kinh tế tiền mặt 1)Thiệt hại kép của”nền kinh tế tiền mặt” đối với đời sống kinh tế-xã hội: Trong suy nghĩ của nhiều người dânViệt Nam, việc tiêu dùng tiền mặt không hề có tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ mà trái lại đem đến cho họ sự thuận tiện trong các hoạt động thanh toán.Nhưng trên thực tế, nền kinh tế tiền mặt có rất nhiều tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như tới các khía cạnh của đời sống xã hội. - Thiệt hại thứ nhất là chi phí cho việc thanh toán bằng tiền mặt từ khâu in ấn, vận chuyển, tính đếm, bảo quản, thất thoát khá tốn kém. Đối với các đồng tiền mệnh giá nhỏ, thì việc in, vận chuyển, tính đếm còn hơn nhiều.Trên thực tế,năm 2006 khi chính phủ phát hành tiền polyme và tiền xu đã tốn rất nhiều chi phí trong khi mang lại hiệu quả mang lại không cao. Tiền polyme đòi hỏi chi phí sản xuất lớn hơn và quy trình in ấn phức tạp hơn so với loại tiền cotton thông thường.Do chi phí giấy, mực, chế bản tiền polymer của Việt Nam mua từ nhà cung cấp độc quyền của công nghệ in tiền polymer của Nhà máy in tiền quốc gia của Australia (NPA),Hơn hai mươi nước trong đó có Việt Nam phải mua giấy từ hãng độc quyền là Securency, cộng thêm việc tăng chi phí lao động giờ làm (so cùng một lượng tiền giấy cotton, việc in tiền polymer tốn nhiều công lao động hơn), giá thành làm tiền polymer đắt hơn tiền cotton.Tuy nhiên tiền polyme vẫn chưa đạt tiêu chuẩn, còn nhiều nhược điểm, thiếu sót gây nên tâm lí e ngại cho người dân khi dùng tiền. Người dân cảm thấy sử dụng loại tiền mới này chưa quen và gặp nhiều bất tiện. Phải một thời gian sau đó tiền polyme và tiền xu mới dần dần phổ biến hơn trong đời sống hằng ngày.Việc phát hành tiền polyme và tiền xu không cải thiện được nhiều tốc độ lưu thông tiền tệ trong khi đó nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế tiền mặt. -Thiệt hại thứ hai có lẽ còn tốn kém hơn nhiều và không thể đo đếm được, đó là rất dễ dung dưỡng cho kinh tế ngầm, cho buôn gian bán lận, trốn thuế, cho tham nhũng tiêu cực phát sinh, phát triển và rất khó kiểm soát. Đây cũng là một trong những cản trở cho các cuộc điều tra, phát hiện các hiện tượng trên.Thông qua cuộc khảo sát vào năm 2003, kết quả cho thấy:tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt; Nền kinh tế tiền mặt là một môi trường tốt cho các hoạt động kinh tế ngầm diễn ra và phát triển. Bởi lẽ trong nền kinh tế mà hoạt động thanh toán chủ yếu thông qua tiền mặt thì việc quản lý các luồng tiền hay các hoạt động kinh doanh, đầu tư gặp rất nhiều khó khăn. Các nhà quản lý không thể nắm hết thông tin về những luồng tiền đi vào đi ra hay những giao dịch diễn ra hằng ngày.Tại Việt Nam tình trạng lừa đảo trong kinh doanh và trốn thuế đang rất phổ biến đặc biệt nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn.Có một số công chức nhà nước lợi dụng chức vụ quyền hạn nhận hối lộ và tiếp tay cho những hoạt động phi pháp. Trên thực tế cơ quan điều tra còn gặp nhiều trở ngại để đưa những hiện tượng này ra ánh sáng. Lý do là vì thu nhập của các công chức nhà nước chưa hoàn toàn được minh bạch hoá.Nhiều người trong số họ chưa có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng nên những thu nhập thêm ngoài tiền lương không được công khai về con số cũng như nguồn gốc. Trong lĩnh vực kinh tế ngầm còn có hoạt động rửa tiền gây thất thoát lớn cho nền kinh tế. Vấn đề này sẽ được đề cập kĩ hơn ở phần sau của bài tiểu luận. - Thiệt hại thứ ba là khó kiểm soát chính xác thu nhập để thực hiện Luật Thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao. Đại đa số dân cư, công chức, viên chức thuộc chính phủ, các lao động của các doanh nghiệp chưa tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ thanh toán vì hệ thống thanh toán điện tử chưa thực sự đồng bộ và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán. Việc kiểm soát chính xác thu nhập của từng người dân là bất khả thi. Vì thế khó có thể định được mức thuế thu nhập cho những người có thu nhập cao. Ở Việt Nam, tình trạng những người có thu nhập cao không công khai thu nhập thực tế của mình để trốn thuế đang diễn ra rất phổ biến. -Thiệt hại thứ tư mà "nền kinh tế tiền mặt" gây ra là chưa bảo đảm cho sự an toàn của đồng tiền mỗi khi thanh toán, vận chuyển, bảo quản..., kể cả đối với các cơ quan, doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Đã có không ít các vụ thụt két, cướp tiền của người đi lĩnh tiền hay nộp tiền vào ngân hàng; tạo thuận lợi cho tình trạng rửa tiền.... Tất cả các giao dịch từ mua bán những hàng hoá có giá trị nhỏ đến những hàng hoá có giá trị khổng lồ đều thông qua tiền mặt. Những giao dịch lớn lên tới hàng trăm triệu đồng hay hàng tỉ đồng thì việc giao dịch như thế liệu có đảm bảo an toàn hay không? Chính từ điều này đã tạo cơ hội cho các phần tử xấu thực hiện những phi vụ cướp tiền, ảnh hưởng không tốt tới trật tự an toàn xã hội và gây tâm lý hoang mang cho người dân.Người giữ nhiều tiền mặt khi đi trên đường phố cũng không an toàn. Trong nền kinh tế tiền mặt hoạt động rửa tiền cũng được dung dưỡng phát triển làm lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội đồng thời làm sai lệch các thống kê của nền kinh tế. 2.Tình trạng rửa tiền trong nền kinh tế tiền mặt. -Khái niệm rửa tiền: Rửa tiền là việc biến đổi thu nhập phi pháp thành tài sản mà các cơ quan công quyền không thể truy ra nguồn gốc phi pháp ấy. Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới. Theo nhiều sử gia, thương nhân Trung Quốc đã biết “rửa tiền” hơn ba ngàn năm trước để tránh thuế của triều đình. Tuy nhiên, hoạt động này đã bùng nổ với toàn cầu hóa, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nước đang phát triển hoặc chuyển tiếp. Có nhiều hình thức cũng như địa chỉ rửa tiền được giới tội phạm quốc tế chọn lựa. Những công ty ma, những sòng bạc, nhà hàng, tiệm kim hoàn, đại lý mua bán xe ô tô, các nhà môi giới tác phẩm nghệ thuật, các hoạt động xuất nhập khẩu...đều là những địa chỉ rửa tiền quen thuộc. Tuy nhiên, quân cờ được ưu chuộng nhất vẫn là ngân hàng Thuỵ Sĩ, với chất lượng dịch vụ tốt và nguyên tắc tôn trọng bí mật khách hàng nổi tiếng vẫn được xem là điểm đến tốt nhất của các ông trùm, của các tổ chức tội phạm quốc tế, tuy rằng ngay từ thập niên 1980, nhà cầm quyền Thuỵ Sĩ và các ngân hàng đã nhận thức được mối nguy hiểm bị các tổ chức tội phạm quốc tế lợi dụng và do đó đã xây dựng các kênh thông tin và khai các mối liên lạc hợp tác chặt chẽ với các cơ quan phòng chống rửa tiền quốc tế. -Những người cần rửa tiền: Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố, một hiện tượng tương đối mới) làm ba nhóm: Những người buôn lậu (ma túy, vũ khí, lao động bất hợp pháp…). Những người tham nhũng. Những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình.  Tiền bẩn có thể từ các doanh nghiệp làm ăn công khai, chẳng hạn khi họ chuyển tiền từ nước này sang nước khác để tránh thuế. Có hai phương pháp để làm việc này. Một là khai gian giá trị những dịch vụ mà bản chất là hợp pháp. Hai là khai (như trong hóa đơn) một dịch vụ hoàn toàn không có (kể cả việc lập công ty ma). Trong các nguồn tiền cần rửa thì có lẽ nguồn kinh doanh là phản ánh tính toàn cầu hóa nhiều nhất, mà một trong những biểu hiện là việc khai man giá chuyển giao (transfer price) để tránh thuế của các công ty xuyên quốc gia. -Thực trạng rửa tiền ở Việt Nam: Theo nhận định của Thượng tướng Lê Thế Tiệm Uỷ viên TW Đảng, thứ trưởng Bộ Công an: Tội phạm rửa tiền đã xuất hiện ở Việt Nam và tiềm ẩn nhiều phức tạp. Bước đầu Cơ quan Công an Việt nam đã điều tra một số vụ việc rửa tiền thông qua việc đầu tư các loại dự án... Để ngăn chặn loại tội phạm này, chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp tích cực, trong đó đã thành lập Ủy ban quốc gia phòng chống tội phạm về rửa tiền. Thử làm một phép so sánh giữa nền kinh tế tiền mặt của nước ta với một nền kinh tế không sử dụng tiền mặt như Mỹ để thấy được nguy cơ phát sinh tình trạng rửa tiền ở một nền kinh tế tiền mặt là lớn hơn. Trong nền kinh tế của Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác, các giao dịch lớn chủ yếu được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, các tổ chức và cá nhân không sử dụng tiền mặt để thực hiện các giao dịch lớn. Họ đã quen gửi tiền vào ngân hàng và giao dịch thanh toán mọi thứ qua hệ thống này. Lâu dần, các chính phủ dựa theo tập quán này để thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm soát hữu hiệu về thuế bằng cách quy định bắt buộc mọi giao dịch lớn đều phải thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Hậu quả là toàn xã hội trở nên xa lạ với hiện tượng dùng tiền mặt để mua nhà, mua xe... hoặc những loại tài sản khác có giá trị lớn. Việc dùng một số lượng tiền mặt lớn (vài chục ngàn, vài trăm ngàn USD) để mua bán, giao dịch đều bị xem là những hiện tượng bất thường và không được những người làm ăn đàng hoàng chấp nhận. Không người lương thiện nào dám bán một tài sản có giá trị lớn của mình để nhận lại một số tiền mặt lớn. Không người lương thiện nào giám giữ một số lượng lớn tiền mặt trong nhà. Trừ khi chứng minh được là thắng canh bạc lớn tại các sòng bạc, một người tự nhiên có trong tay một số tiền mặt vài chục ngàn, vài trăm ngàn đô la Mỹ chắc chắn sẽ bị nghi ngờ về một nguồn gốc bất minh của số tiền đó. Hầu như chỉ có giới tội phạm, các tay buôn bán ma tuý, buôn lậu vũ khí mới có trong tay những khoản tiền mặt lớn như thế. Ở các nước này, đồng tiền mặt, với số lượng lớn và tập trung được xem là đã bị nhuộm bẩn. Ngược lại, trong những nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tiền mặt là phương tiện thành toán phổ biến nhất. Không chỉ tiền mặt bản xứ, vàng, đô la Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi trong việc mua bán các loại hàng hoá, tài sản có giá trị lớn. Việc mua bán các tài sản, hàng hoá như nhà cửa xe cộ, đất đai với giá trị tương đương hàng tỉ đồng, hàng trăm, hàng ngàn lượng vàng, hàng trăm ngàn USD không phải là chuyện hiếm.Các giao dịch như thế đều được xã hội mặc nhiên thừa nhận, hơn nữa còn tỏ ra tiện lợi, nhanh chóng Vì thế hoạt động rửa tiền được dung dưỡng và phát triển.Theo luật, đồng bạc do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành có hiệu lực thanh toán không hạn chế trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước cũng chưa có quy định nào về việc hạn chế thanh toàn tiền mặt cho các giao dịch có giá trị lớn. Đồng tiền mặt, do vậy, đã hợp pháp và “sạch” ngay từ khi nó còn ở ngoài hệ thống ngân hàng. Một khi nó đã được sạch ngay từ khi nằm ngoài hệ thống ngân hàng, vậy cần gì phải “rửa” nó bằng cách đưa vào trong ngân hàng để rồi có thể bị “lộ tẩy”? -Hậu quả của tình trạng rửa tiền và chính sách phòng chống: Sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận, mà phần lớn là để trốn tránh luật pháp. Hoạt động rửa tiền vừa lãng phí nguồn lực kinh tế của xã hội (vào các hoạt động tội phạm sinh ra tiền bẩn, thay vì vào các hoạt động sản xuất thật sự hữu ích), vừa bóp méo sự phân bố các nguồn lực ấy. Ngoài những ảnh hưởng về phân bố tài nguyên, luồng tiền bẩn cũng sẽ làm sai lệch các thống kê kinh tế. Ngoài ra, ảnh hưởng của mỗi loại tiền bẩn có khác nhau (chẳng hạn tiền bẩn do tham nhũng có ảnh huởng khác tiền bẩn do buôn lậu). Thiếu những con số chính xác, tất nhiên là chính sách kinh tế (nhất là về tiền tệ, như việc điều chỉnh lãi suất) sẽ không thể đúng liều lượng và hữu hiệu được. Tiền bẩn và hoạt động rửa tiền cũng ảnh hưởng sâu sắc đến phân bố thu nhập (tạo bất công) và làm chao đảo sự tín nhiệm của xã hội vào các thị trường tài chính. Nhìn từ quan điểm tăng trưởng vĩ mô, có thể đây là tai hại nguy hiểm nhất. Biện pháp chống rửa tiền trong nền kinh tế: Như vậy, nếu với mục tiêu chống rửa tiền, biện pháp giám sát các lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng ở một mức nhất định có thể chỉ ngăn chặn được phần ngọn mà chưa đánh thẳng vào phần gốc, chưa kể có thể gây ra những tác động phụ không mong muốn đối với những người gửi tiền lương thiện nhưng ngại phiền phức và cả đối với hệ thống ngân hàng nước ta đang lỗ lực thu hút nguồn tiền mặt....Việc phân biệt tiền sạch, tiền bẩn cho mục tiêu chống rửa tiền cần phải được thực hiện ngay từ các giao dịch ngoài hệ thống ngân hàng. Chính các giao dịch có giá trị lớn ngoài hệ thống ngân hàng mới cần được giám sát và kiểm soát trước nhất. Việc mua nhà, mua đất, mua xe muốn được đóng thuế trước bạ hợp lệ, tức là muốn được công nhận hợp pháp, phải được thanh toán thông qua ngân hàng. Điều này sẽ khuyến khích việc dân chúng gửi tiền vào và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Cần phải xây dựng cho cộng đồng xã hội tập quán thanh toán không dùng tiền mặt. Một hệ thống giám sát phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm rửa tiền, chỉ có thể trở nên hữu hiệu nếu được xây dựng trên nền móng đó. Chính điều đó mới quyết định kết quả thành công của biện pháp chống rửa tiền, cho dù đó sẽ phải là một nỗ lực lâu dài. Nền kinh tế tiền mặt, từ lâu vốn được xem là thiên đường của bọn rửa tiền, sẽ chỉ kết thúc vai trò đó khi nó không còn là một nền kinh tế tiền mặt. CHƯƠNG III:GIẢI PHÁP CHO NỀN KINH TẾ TIỀN MẶT 1.Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hệ thống ngân hàng -Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm các luật,quy định liên quan đến các chủ thể tham gia thanh toán nói chung trong nền kinh tế cũng như hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Định hướng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý bao gồm :phân định rõ quyền hạn trách nhiệm của các bên tham gia hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ,trên cơ sỏ đó kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp, đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế đựoc các định chế tài chính,tiền tệ quốc tế khuyến nghị hoặc đựơc áp dụng chung ở nhiều quốc gia khác,tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và tiếp cận dịch vụ ,hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và đảm bảo quy trình giải quyết tranh chấp hiệu quả khách quan ,hạn chế thanh toán bằng tiền mặt đối với những đối tượng có sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm tăng khả năng kiểm soát việc sử dụng nguồn ngân sách. -Rà soát,bổ sung,chỉnh sửa cơ chế chính sách ,các văn bản liên quan đến hoạt đọng thanh toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phù hợp với lộ trình thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tề,ngân hàng như Hiệp định thương mại Việt Mỹ ( BTA ),Hiệp định AFTA hiệp định khung về thương mại,dịch vụ ASEAN (AFAS) và những cam kết với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) -Xây dựng,sửa đổi bổ sung các luật,văn bản dưới luật của Chính phủ,Ngân hàng Nhà nước một cách đồng bộ,nhất quán và hoàn chỉnh về lĩnh vực thanh toán để tạo điều kiện phát triển các dịch vụ,phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt là các dịch vụ, phương tiện thanh toán hiện đại dựa trên việc ứng dụng công nghệ thông tin, đồng thời từng bước hạn chế thanh toán tiền mặt. +Đối với các giao dịch thanh toán từ xa qua các thiết bị điện tử như thanh toán qua điện thoại di động,Internet … hoàn thiện cơ sở pháp lý hiện hành nhằm tạo điều kiện về mặt cơ chế,chính sách cho loại hình thanh toán này phát triển. -Củng cố và phát huy vai trò của bộ máy quản lý nhà nước bắng cách tăng cường chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của bộ phận chuyên trách lập cơ chế chính sách chung để phát triển hoạt động thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước +Kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự của Vụ Thanh toán.Tăng cường cán bộ có trình độ,kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán , đào tạo các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực thanh toán. +Phát huy vai trò của Hội đồng thanh toán để các thành viên trong Hội đồng có cơ hội tham gia ý kiến với Ngân hàng Nhà nước khi xây dựng chiến lược , định hướng, chính sách phát triển thanh toán cũng như trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước. 2.Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công a.Quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt -Từng bước yêu cầu thanh toán không dùng tiền mặt với các khoản chi tiêu của chính phủ, tiến tới áp dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đối với hầu hết các khoản chi của của những người có chức vụ, các khoản chi tiêu thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản.Phấn đấu đến cuối năm 2010, tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ , các cấp chính quyền tỉnh thành phố đều thực hiện chi tiêu công bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.Từ 2011 – 2020 sẽ triển khai mở rộng đến các đối tượng là Sở, Ban, ngành, các cấp chính quyền huyện, xã trên phạm vi toàn quốc. b.Trả lương qua tài khoản - Yêu cầu trả lương vào tài khoản đối với các cán bộ, công viên,viên chức làm việc trong bộ máy nhà nước,khuyến khích người lao động trong các doanh nghiệp nhận lương và chi tiêu qua tài khoản.Triển khai từ những cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có điều kiện trước,từ các thành phố lớn trước rồi mở rộng dần sau.Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp với các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân tỉnh,thành phố lên kế hoạch triển khai thực hiện, đồng thời phối hợp với các ngân hàng thương mại nghiên cứu và xác định khả năng đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và lựa chọn được một số tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có khả năng. - Phấn đấu đến cuối năm 2010 tất cả các cơ quan, đơn vị hưởng lương từ ngân sách nhà nước và 70% các loại hình doanh nghiệp tại các thành phố, tỉnh đều sử dụng dịch vụ ngân hàng để trả lương cho cán bộ , nhân viên. c.Chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản . - Đưa dịch vụ ngân hàng và dịch vụ thanh toán đến các đối tượng có trình độ thấp, vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa thông qua viạc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản. + Tạo thuận lợi nhất cho đối tượng khi rút tiền, chuyển tiền, thanh toán các dịch vụ (điện thoại, điện nước,…)và mua sắm hàng hoá.Trong trường hợp đối tượng già yếu, đi lại khó khăn thì đơn vị thực hiện dịch vụ này có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt tại nhà cho đối tượng. + Không thu bất kỳ một khoản tiền nào của đối tượng khi thực hiện phương thức chi trả này. + Đảm bảo các thủ tục quyết toán chi trả theo quy định. - Bộ Lao động – Thưong binh và xã hội phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính triển khai ở những nơi có điều kiện trước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng . - Lựa chọn tổ chức thực hiện dịch vụ thanh toán đáp ứng đầy đủ, tốt nhất các mục tiêu, yêu cầu của việc chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản. 3.Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp. - Trang bị kiến thức, thông tin cho doanh nghiệp về những đặc điểm, tiện ích, rủi ro của từng loại phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán, trên cơ sở đó các doanh nghiệp lựa chọn các đối tượng, phạm vi và chủng loại của sản phẩm dịch vụ thanh toán phù hợp với nhu cầu của mình;Ngân hàng và các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán tạo thuận lợi trong việc mở tài khoản, tạo ra sự gắn kết giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán với các chủ thể kinh doanh trong việc cung cấp dịch vụ trọn gói, phát triển các loại hình thanh toán điện tử… - Yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong phạm vi, đối tượng nhất định ; có chính sách cụ thể đối với chủ thể kinh doanh để khuyến khích thanh toán qua ngân hàng. - Tập trung phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử, tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan