Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh

MỤC LỤC

A. Đặt vấn đề 1

B. Nội dung chính 1

I. Những vấn đề chung về công ty hợp danh 1

II. Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp 2005 và bình luận 2

1. Thành viên công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm 2

2. Quản lí công ty hợp danh 4

3. Vốn trong công ty hợp danh 6

4. Tư cách pháp lí của công ty hợp danh 8

III. Thực trạng và các biện pháp hoàn thiện pháp luật về

công ty hợp danh ở Việt Nam. 10

1. Thực trạng về công ty hợp danh ở Việt Nam hiện nay. 10

a. Ưu điểm 11

b. Nhược điểm 12

2. Hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh 13

C. Kết luận 15

Danh mục tài liệu tham khảo 16 

 

docx17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3040 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hống được đa số các nước áp dụng, công ty hợp danh là loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên có ít nhất hai thành viên cùng tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Ở Việt Nam mô hình kinh tế thị trường xuất hiện khá muộn và cũng phải mãi tới năm 1999, khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời thì loại hình công ty hợp danh mới chính thức được ghi nhận và dần được hoàn thiện trong Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định các vấn đề về công ty hợp danh tại chương V.Theo cách nhìn nhận của các nhà làm luật Việt Nam, có hai loại hình công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp 2005 đó là công ty hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh (giống pháp luật các nước) và công ty hợp danh bao gồm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. (gọi là công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật các nước). Tuy có những điểm khác biệt nhưng Luật Doanh nghiệp của Việt Nam cũng đã ghi nhận công ty hợp danh là loại hình công ty đối nhân đặc trưng. II. Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp 2005 và bình luận. Luật Doanh nghiệp 2005 đã dành riêng Chương V để quy định về loại hình công ty hợp danh. 1. Thành viên công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm. Khoản 1, Điều 130, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định: “Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn; b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.” Như vậy về số lượng, công ty hợp danh phải có ít nhất 2 thành viên hợp danh cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Ngoài thành viên hợp danh pháp luật đã quy định công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn (chịu trách nhiệm hữu hạn). Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã hợp nhất hai loại hình công ty hợp danh thông thường và công ty hợp danh hữu hạn, cả hai được gộp chung với tên duy nhất là công ty hợp danh. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh, trong trường hợp này công ty hợp danh phải được lập ra bởi ít nhất hai thành viên hợp danh. Bên cạnh thành viên hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn. Pháp luật Việt Nam chỉ quy định số lượng thành viên hợp danh tối thiểu mà không quy định số lượng tối thiểu của thành viên góp vốn. Đây chính cũng là điểm khác biệt của pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam so với một số nước trên thế giới. Ở đa số các nước trên thế giới, có sự phân biệt rõ ràng giữa công ty hợp danh thông thường và công ty hợp danh hữu hạn. Ở các nước này, khái niệm “công ty hợp danh” là chỉ công ty hợp danh thông thường (hợp danh tuyệt đối) chỉ bao gồm một loại thành viên duy nhất là các thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải là cá nhân, liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa cụ của công ty, họ là những người quyết định sự tồn tài và phát triển của công ty về cả mặt pháp lí và thực tế. Chủ nợ có thể yêu cầu bất kì thành viên hợp danh nào của công ty thanh toán các khoản nợ của công ty với chủ nợ bằng toàn bộ tài sản của thành viên hợp danh (bao gồm tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự). Với trách nhiệm tài sản vô hạn, thành viên hợp danh cũng nhận được những quyền hạn cũng như nghĩa vụ tương xứng. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì thành viên hợp danh chỉ cần là cá nhân mà không yêu cầu cần có trình độ, chuyên môn, uy tín nghề nghiệp, tuy nhiên thực tế yêu cầu rất nhiều ngành nghề mà thành viên hợp danh nhất thiết phải cần có chuyên môn, ví dụ như dịch vụ pháp lí hay khám chữa bệnh. Điều này đã được pháp luật bổ sung trong các văn bản khác. Các quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp danh được quy định tại điều lệ công ty và Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005, các quyền lợi và nghĩa vụ này tạo điều kiện thuận lợi nhất để thành viên hợp danh phát huy toàn bộ khả năng, quản lí đưa công ty phát triển, kinh doanh có lãi. Bên cạnh đó pháp luật cũng hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh theo quy định tại Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005 nhằm bảo vệ lợi ích của công ty, cũng như các thành viên khác đồng thời cũng đã phần nào thể hiện được tính chất đối nhân của công ty hợp danh. Thành viên góp vốn có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Đây chính là điểm mâu thuẫn của Luật Doanh nghiệp 2005, gây ra rất nhiều tranh cãi. Tại điểm c, khoản 1, Điều 130, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty” tuy nhiên khoản 3 Điều 131 quy định “trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó đối với công ty” đến điểm a, khoản 2, Điều 140 lại quy định thành viên góp vốn “chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp”. Như vậy chỉ với một quy định về chế độ chịu trách nhiệm của thành viên góp vốn mà đã có sự không nhất quán giữa các điều luật. Đây chính là sự thiếu xót, mâu thuẫn của Luật Doanh nghiệp 2005, gây khó khăn trong việc áp dụng luật. Theo lập luận của các chuyên gia thì thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Thành viên góp vốn không được tham gia quản lí công ty, không được hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các quyền và nghĩa vụ cụ thể của thành viên góp vốn được quy định tại Điều 140 Luật Doanh nghiệp 2005. Có thể thấy với việc quy định như vậy, thành viên góp vốn không được quyền tự quyết đối với số phận đồng tiền của mình, họ góp vốn vào công ty mà không được quản lí đồng tiền đó vì vậy họ không mặn mà với việc đầu tư trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh. 2. Quản lí công ty hợp danh. Cơ quan quản lí cao nhất của công ty hợp danh là Hội đồng thành viên. Luật Doanh nghiệp 1999 đã quy định Hội đồng thành viên của công ty hợp danh chỉ bao gồm thành viên hợp danh. Đến Luật Doanh nghiệp 2005 quy định về Hội đồng thành viên của công ty hợp danh đã được sửa đổi, theo khoản 1 Điều 135 quy định Hội đồng thành viên của công ty hợp danh do tất cả thành viên của công ty hợp lại, bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Tuy nhiên khác với công ty TNHH, về bản chất thì thành viên hợp danh có quyền thảo luận, quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên, thành viên góp vốn tuy được tham gia vào Hội đồng thành viên nhưng thực chất lại không có quyền quản lí điều hành công ty, họ chỉ đươc tham gia thảo luận, biểu quyết những vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ công ty, tổ chức lại, giải thể công ty… Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công việc kinh doanh của công ty. Nếu Điều lệ công ty không quy định, thì các vấn đề quan trọng của công ty hợp danh được quy định tại khoản 3, Điều 135 Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ được thông qua nếu có ít nhất ba phần tư tổng số thành viên hợp danh chấp thuận còn khi quyết định những vấn đề khác không quan trọng thì chỉ cần hai phẩn 3 tông số thành viên hợp danh chấp thuận.Vì thế ít người muốn bỏ tiền ra mà chỉ để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Khác với Chủ tịch Hội đồng Quản trị của công ty cổ phần hay Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty TNHH, theo quy định của pháp luật và với bản chất đối nhân thì Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty hợp danh chỉ giữ vai trò điều phối hoạt động của các thành viên khác thông qua triệu tập cuộc họp cuộc họp Hội đồng thành viên, không thể tự quyết định bất cứ vấn đề gì của công ty mà không thông qua Hội đồng thành viên. Các thành viên hợp danh đều có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hằng của công ty hợp danh, có quyền yêu cầu triệu tập Hội đồng thành viên. Có thể thấy pháp luật đã quy định, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty hợp danh có quyền và nghĩa vụ ngang hàng với các thành viên hợp danh khác, họ chỉ đại diện cho công ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước, trong các vụ kiện, tranh chấp với tư cách là nguyên đơn, bị đơn. Đây cũng chính là đặc điểm của công ti đối nhân. 3. Vốn trong công ty hợp danh. Công ty hợp danh cũng là một loại hình doanh nghiệp vi thế vấn đề vốn luôn luôn được đặt ra. Tuy nhiên, do là công ty đối nhân nên ở loại hình công tyhợp danh, yếu tố nhân thân có vai trò chủ đạo, vốn là yếu tố thứ yếu. Trong loại hình công ty này, phần vón góp ngoài các yếu tố vật chất còn mang nhiều phi vật chất như uy tín nghề nghiệp, kinh nghiệm, bí quyết công nghệ… và cách yếu tố gắn liền với nhân thân khác, đây là đặc trưng của loại hình công ty đối nhân. Vốn điều lệ được các thành viên của công ty hợp danh góp khi thành lập công ty và được ghi trong Điều lệ công ty. Số vốn mà các thành viên cam kết góp vào công ty cũng được ghi nhận trong Điều lệ của công ty. Vốn điều lệ của công ty hợp danh trong một số ngành nghề, theo quy định của pháp luật không được thấp hơn vốn pháp định. Tài sản của công ty hợp danh bao gồm tài sản góp vốn của các thành viên đã chuyển quyền sở hữu vào công ty, tài sản được tạo lập mang tên công ty; tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng kí của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; các tài sản theo quy định của pháp luật (theo các quy định tại Điều 132 Luật Doanh nghiệp 2005). Trong quá trình hoạt động công ty hợp danh có thể tăng thêm vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên hoặc kết nạp thêm thành viên mới vào công ty theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Thành viên mới tiếp nhận có thể là thành viên hợp danh và cũng có thể là thành viên góp vốn. Việc tăng vốn điều lệ phải được Hội đồng thành viên của công ty hợp danh thông qua với ít nhất 3/4 tổng số thành viên hợp danh đồng ý. Quy định về việc tiếp nhận thành viên mới của công ty hợp danh được Luật Doanh nghiệp quy định tại Điều 139. Những quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 giúp cho công ty hợp danh có thể dễ dàng hơn trong tăng vốn điều lệ, mở rộng hoạt động kinh doanh sản xuất, tăng sức hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp này với các nhà đầu tư. Vấn đề chuyển nhượng phần vốn góp cũng có sự khác biệt giữa thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Trong công ty hợp danh, phần vốn góp của thành viên hợp danh gắn liền với nhân thân của họ đúng với tính chất đối nhân của loại hình doanh nghiệp này. Do vậy việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên hợp danh rất khó khăn, thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại (quy định tại khoản 3 Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Mặt khác có thể thấy trong công ty hợp danh các thành viên hợp danh hợp tác với nhau trên cơ sở mối quan hệ quen biết, tin tưởng nhau, vì vậy các thành viên hợp danh đều không muốn một thành viên hợp danh nào khác của công ty chuyển nhượng vốn góp cho người khác. Những quy định này của pháp luật một lần nữa đã tôn trọng và bảo vệ bản chất đối nhân của công ty hợp danh. Đối với thành viên góp vốn thì việc chuyển nhượng, mua bán phần vốn góp diễn ra tự do bởi việc chuyển nhượng này không hề làm thay đổi bản chất đối nhân của công ty hợp danh. Theo Luật Doanh nghiệp quy định thì công ty hợp danh không được phép phát hành bất cứ một loại hình chứng khoán nào (theo quy định tại khoản 3, Điều 130, Luật Doanh nghiệp 2005). Do đó trong quá trình hoạt động công ty hợp danh chỉ có thể tăng vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên hoặc kết nạp thành viên mới như đã phân tích ở trên. Chúng ta có thể lí giải được các quy định này của Luật Doanh nghiệp bởi bản chất đối nhân của công ty hợp danh. Ở công ty hợp danh, yếu tố nhân thân của thành viên là vô cùng quan trọng, đồng thời thông thường công ty hợp danh hoạt động ở mô hình vừa và nhỏ, việc vay vốn ngân hàng hay của các chủ nợ khác dễ dàng do có chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh. Chính vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định công ty hợp danh không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào. Theo tôi điều này có phần đã làm giảm tính lưu động trong việc huy động vốn của công ty hợp danh. Chỉ nên cấm công ty hợp danh phát hành cổ phiếu, bởi người mua cổ phiếu sẽ trở thành cổ đông của công ty, giống như công ty cổ phần, cổ đông có quyền tham gia vào hoạt động quản lí công ty, vì vậy sẽ làm mất đi bản chất đối nhân của công ty hợp danh. Đối với trái phiếu, người mua sẽ chỉ trở thành chủ nợ của công ty mà không trở thành thành viên của công ty, không có quyền quản lí, vì vậy bản chất đối nhân vẫn được giữ nguyên. Theo tôi, Luật Doanh nghiệp cần cho phép công ty hợp danh có quyền phát hành trái phiếu giúp tăng sức hấp dẫn với các nhà đầu tư. 4. Tư cách pháp lí của công ty hợp danh. Khoản 2. Điều 130, Luật Doanh nghiệp 2005 đã khẳng định “công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.” Có thể thấy đây chính là điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 1999 không công nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh cũng là một vấn đề dành được rất nhiều sự quan tâm từ mọi phía. Quan điểm của luật Doanh nghiệp 1999 về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh là phù hợp với đúng quan điểm của Bộ luật Dân sự 1995 về pháp nhân, pháp nhân phải có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Tuy nhiên, ở công ty hợp danh, tài sản của công ty lại không hoàn toàn độc lập với tài sản của thành viên hợp danh do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên này. Một khi công ty không đủ tài sản để hoàn y thành các nghĩa vụ của mình thì các thành viên hợp danh phải lấy tài sản riêng của mình ra để trả nợ. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Theo quan điểm của ban soạn thảo luật, thì việc thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh không hề mâu thuẫn với quy định về pháp nhân trong Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005: “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Được thành lập hợp pháp; 2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; 3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; 4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.” Khi công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân, có nhiều ý kiến cho rằng công ty hợp danh không thỏa mãn được điều kiện thứ ba. Các nhà soạn thảo luật đã giải thích, mặc dù công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty nhưng công ty hợp danh vẫn có tài sản riêng, độc lập với các cá nhân, tổ chức khác. Tài sản của công ty hợp danh được hình thành bởi vốn góp của các thành viên hợp danh cũng như thành viên góp vốn. Tài sản góp vốn của các thành viên phải được chuyển quyền sở hữu thành tài sản của công ty. Đồng thời các tài sản được hình thành trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty hợp danh cũng thuộc quyền sở hữu của công ty. Như vậy các nhà soạn thảo luật đã kết luận tài sản của công ty hợp danh vẫn độc lập với các cá nhân, tổ chức khác, có nghĩa là thỏa mãn dấu hiệu thứ 3 của pháp nhân. Mặt khác, công ty hợp danh được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ, cơ quản quản lí cao nhất là Hội đồng thành viên, công ty hợp danh nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy, công ty hợp danh đã thỏa mãn các dấu hiệu, điều kiện để được công nhận pháp nhân theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005. Lập luận này của ban soạn thảo Luật nhận được khá nhiều đồng tình và đã được Quốc hội thông qua, thừa nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên việc công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân cũng gặp ngay phải các quan điểm trái chiều. Một số ý kiến cho rằng, việc công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân theo Luật Doanh nghiệp 2005 là không nhất quán với các quy định của Bộ luật Dân sự 2005. Khoản 3 Điều 84 Bộ luật Dân sự không những quy định pháp nhân có tài sản độc lập với các cá nhân tổ chức khác mà còn phải tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó. Trong khi đó, công ty hợp danh lại phải có ít nhất hai thành viên hợp danh liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Nếu tài sản của công ti không đủ để thanh toán các khoản nợ đến hạn, thì các thành viên phải lấy cả tài sản dân sự của mình ra để thanh toán các khoản nợ đó cho chủ nợ. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 93 Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định “thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện”. Theo tôi việc công nhận công ty hợp danh có tư cách pháp nhân là phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, tăng tính hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp còn mới mẻ này ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cần có sự thay đổi, tránh mâu thuẫn phát sinh trong hệ thống pháp luật. III. Thực trạng và các biện pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam. 1. Thực trạng về công ty hợp danh ở Việt Nam hiện nay. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2009 thì trên cả nước có tổng số 205702 doanh nghiệp hoạt động, trong đó, số lượng công ty hợp danh lại vô cùng nhỏ bé với vỏn vẹn 67 công ty hợp danh hoạt động. Loại hình công ty hợp danh chính thức được ghi nhận trong hệ thống loại hình doanh nghiệp ở Viêt Nam từ sau Luật Doanh nghiệp 1999. Sau 10 năm vậy mà số lượng công ty hợp danh mới chỉ dừng lại ở mức hai chữ số. Phải chăng loại hình công ty hợp danh không có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư? Trong những năm qua đã có rất nhiều nghiên cứu tìm ra nguyên nhân, giải pháp về vấn đề này với mong muốn đưa công ty hợp danh trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Với những đặc điểm của mình ta có thể thấy loại hình công ty hợp danh mang trong mình những ưu điểm và hạn chế riêng. a. Ưu điểm. Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp duy nhất có sự kết hợp giữa chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn của thành viên góp vốn, do đó các nhà đầu tư có quyền lựa chọn chế độ chịu trách nhiệm tài sản, vì vậy nó khả năng thu hút các nhà đầu tư. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn tạo ra sự tin tưởng cho các chủ nợ, ngân hàng và các nhà đầu tư khác bởi tính an toàn pháp lí cao. Do tính chất đối nhân, các thành viên hợp danh đều quen biết, tin tưởng nhau về uy tín nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, các bên đều hiểu rõ về nhau. Vì vậy, công ty hợp danh phát huy tinh thần đoàn kết, thúc đẩy mỗi thành viên phát huy hết khả năng của mình cho công ty. Bên cạnh đó do thành viên hợp danh lại trực tiếp quản lí, điều hành công ty và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty, vì thế mỗi thành viên hợp danh đều dốc toàn bộ sức mình vào công ty, vì mục đích chung của toàn công ty nhằm thu nhiều lợi nhuận, tránh những rủi ro. Đồng thời, do các thành viên hợp danh toàn quyền quản lí công ty, với bản chất đối nhân nên không có sự phân hóa quyền quản lí theo tỷ lệ vốn góp, các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau trong việc điều hành quản lí công ty. Vì thế, công ty hợp danh có cơ cấu quản lí gọn nhẹ, đồng thời ít chịu sự quản lí của nhà nước. Loại hình công ty hợp danh tỏ ra khá hợp lí với các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Đồng thời với tính chất đối nhân, các thành viên hợp tác với nhau trên cơ sở quen biết, tin tưởng nhau, điều này khá phù hợp với cách làm việc “làng xã, phường hội” truyền thống của người Việt Nam. b. Hạn chế. Với những ưu điểm nêu trên đáng lẽ công ty hợp danh sẽ thu hút được rất nhiều các nhà đầu tư Việt Nam thế nhưng thực trạng thì hoàn toàn ngược lại. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng này chính là còn tồn tại khá nhiều hạn chế bất cập bên cạnh loại hình công ty này. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều chuyên gia nghiên cứu về hạn chế của công ty hợp danh. Tiến sĩ Vũ Đặng Hải Yến, giảng viên khoa Luật kinh tế trường Đại học Luật Hà Nội đã chỉ ra một số hạn chế cơ bản của loại hình công ty hợp danh như sau: Đầu tiên, các nhà đầu tư còn khá rụt rè khi đầu tư vào loại hình công ty hợp danh bởi còn quá nhiều hạn chế, mâu thuẫn và thiếu xót của hệ thống pháp luật nước ta về công ty hợp danh. Điều này gây ra khá nhiều trở ngại trong việc áp dụng luật vào thực tiễn, tạo ra tâm lí e ngại và thiếu mặn mà với loại hình công ty hợp danh. Thứ hai, khi đầu tư vào công ty hợp danh, nhà đầu tư sẽ phải lựa chọn một trong hai loại chế độ chịu trách nhiệm. Nếu chọn chế độ chịu trách nhiệm vô hạn, tức là trở thành thành viên hợp danh, nhà đầu tư phải san sẻ quyền quản lí công ty với các thành viên hợp danh khác, họ không thể toàn quyền quyết định bất cứ một vấn đề quan trọng nào của công ty mà không thông qua Hội đồng thành viên, bên cạnh đó họ lại phải cùng các thành viên khác liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Trong khi đó, nếu đầu tư vào doanh nghiệp tư nhân, họ phải chịu trách nhiệm tài sản vô hạn nhưng họ sẽ được toàn quyền quản lí công ty, cũng như số vốn của họ. Nếu chọn chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn, nhà đầu tư chỉ được làm thành viên góp vốn, loại thành viên không có thực quyền trong công ty. Chẳng ai muốn giao tiền của mình cho người khác sử dụng mà mình lại không được quyền quản lí việc sử dụng đồng tiền ấy, không thể quyết định được số phận của đồng tiền mà mình đã bỏ ra. Trong khi đó, nếu cũng chọn chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn mà họ đầu tư vào công ti trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần thì họ sẽ trở thành thành viên hay cổ đông của công ty tương ứng, họ có quyền thảo luận, biểu quyết các vấn đề của công ty theo phần vốn góp. Như vậy cả hai lựa chọn này đều không thể hấp dẫn được các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, công ty hợp danh lại không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào dẫn tới khó khăn, hạn chế trong việc huy động vốn. Không thể phát hành chứng khoán, công ty hợp danh chỉ có thể tăng vốn điều lệ bằng cách tăng phần vốn góp của các thành viên hoặc kết nạp thành viên mới, cả hai cách này đều thể hiện sự thiếu linh hoạt khi huy động vốn, mở rộng kinh doanh, sản xuất. 2. Hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh. Với thực trạng cùng những hạn chế nêu trên của công ty hợp danh, để có thể tăng tính hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp này đối với các nhà đầu tư chúng ta cần nhanh chóng có những biện pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty hợp danh. Giải quyết các mâu thuẫn của hệ thống pháp luật xung quanh tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Để tăng tính cạnh tranh của công ty hợp danh trong nền kinh tế nhiều thành phần thì việc thừa nhận công ty hợp danh là phù hợp, tạo cho công ty hợp danh một địa vị pháp lí phù hợp để có thể tham gia vào mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Để tránh các mâu thuẫn xung quanh vấn đề này, giảm tâm lí e ngại khi đầu tư vào công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp hoặc Bộ luật Dân sự cần có sự sửa đổi cho thống nhất với nhau. Chúng ta nên coi công ty hợp danh là một pháp nhân đặc biệt mặc dù không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu điều kiện được quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia cho rằng nên thêm vào Điều 84 này cụm từ “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” đồng thời cũng thêm cụm từ này vào khoản 3, Điều 93: “thành viên của pháp nhân không chịu trách nhiệm dân sự thay cho pháp nhân đối với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Việc thay đổi này không tạo ra sự xáo trộn nào trong hệ thống pháp luật mà lại tránh được những mâu thuẫn về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Ngay trong Luật Doanh nghiệp 2005 cũng có sự mâu thuẫn giữa điểm c khoản 1 Điều 130 và điểm a khoản 2 Điều 140 về chế độ chịu trách nhiệm của thành viên góp vốn. Luật Doanh nghiệp cần sửa đổi lại điểm c khoản 1 Điều 130: “thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty” tức bổ sung thêm cụm từ “cam kết” nhằm tạo ra sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật về công ty hợp danh. Trong công ty hợp danh, thành viên góp vốn không có quyền quản lí, điều hành công ty, nơi mà họ đã đầu tư tiền. Mọi vấn đề cảu công ty đều được các thành viên hợp danh quyết định thông qua tỷ lệ biểu quyết của chính các thành viên hợp danh, các thành viên góp vốn có thể nói là “hữu danh vô thực” điều này khiến cho ít ai muốn trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh. Có thể thấy, sự tồn tại, phát triển hay giải thể của công ty hợp danh đều ảnh hưởn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBài tập học kì Luật thương mại - công ty hợp danh.docx
Tài liệu liên quan