Tiểu luận Nghiên cứu thực phẩm chức năng cho người đái tháo đường

Thị trường thực phẩm chức năng phòng và hỗ trợ điều trị đái tháo đường đang tăng nhanh tại Mỹ. Đã có rát nhiều nghiên cứu về các dòng sản phẩm mới[13]. Loại thực phẩm đang tăng nhanh này được gọi là thực phẩm chức năng hay thực phẩm y học. Chúng đang được nghiên cứu để giải quyết vấn đề dinh dưỡng của người bị bệnh tiểu đường. Với đặc điểm thuận tiện, dễ sử dụng, hương vị thích hợp những sản phẩm này đang được phát triển để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chúng là những thực phẩm lành mạnh giúp bệnh nhân tiểu đưởng kiểm soát được đường huyết và giảm nguy cơ biến chứng lâu dài.[21] Trong các sản phẩm này có sự hợp lý trong tỷ lệ tinh bột, chất xơ, tăng cường vitamin và khoáng chất, đặc biệt đáng chú ý là hàm lượng cao đối với loại vitamin C và E chống oxi hóa và crom cùng các dược thảo với việc sử dụng các phương pháp phi truyền thống.

* Kháng tinh bột và chất xơ hòa tan.

Trong chế độ dinh dưỡng đối với người tiểu đường thì số lượng tiêu thụ cacbohydrate quan trọng hơn là số lượng nguồn cung cấp cacbohydrate. Tuy nhiên các loại tinh bột khác nhau sẽ gây các phản ứng đường huyết khác nhau. Sự chống lại việc thủy phân tinh bột của các enzyme tiêu hóa làm cho việc tiêu hóa và hấp thụ đường chậm lại. Đây chính là một tính năng quan trọng của các sản phẩm thực phẩm chức năng trong phòng hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường.

Lợi ích của kháng tinh bột bao gồm:

- Hạ thấp các phản ứng insulin.

- Cải thiện hiệu quả insulin trong giai đoạn sau bữa ăn.

- Cải tiến trong quá trình chuyển hóa lipid.

- Cải thiện năng lực fibrinolytic.

Giàu chất xơ là một tính năng của thực phẩm chức năng dành cho bệnh nhân tiểu đường. Tất cả mọi người nhất là các bệnh nhân tiểu đường và những người có nguy cơ bị tiểu đường cao nên sử dụng 20-30g chất xơ/ngày từ cả hai nguồn hòa tan và không hòa tan. Các bệnh nhân tiểu đường bị hạn chế calo trong khẩu phần ăn có thể không đủ lượng chất xơ cần thiết .

 

doc61 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 7429 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu thực phẩm chức năng cho người đái tháo đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, suy thận... Thuốc uống: insulin dùng cho bệnh nhân ĐTĐ týp1 và chỉ dùng cho bệnh nhân ĐTĐ týp 2 khi đã thay đổi chế độ ăn, luyện tập và dùng các thuốc điều trị ĐTĐ tổng hợp mà không hiệu quả. Một phương pháp tiên tiến trước đây là thay ghép tế bào tụy của người tình nguyện cho bệnh nhân. Từ năm 1988, hơn 500 trường hợp ghép những tế bào tụy tạng của những người cho trên những bệnh nhân ĐTĐ týp 1 đã được thực hiện trên thế giới. Tuy nhiên kết quả không mấy khả quan vì: việc giữ gìn và chọn lọc những tế bào được ghép vẫn rất khó khăn; kết quả chỉ ở mức khiêm tốn:  khoảng 11% bệnh nhân không cần tiêm insulin một năm sau khi được ghép; tất cả bệnh nhân ghép kiểu này phải được điều trị hủy bỏ miễn dịch suốt đời nên rất phức tạp và tốn kém. Đặc biệt gần đây các nhà khoa học đã nghiên cứu ghép tế bào gốc tự thân để điều trị bệnh ĐTĐ với những kết quả rất đáng khích lệ. Chu trình sản xuất insulin của tuyến tụy. Hy vọng mới từ việc ghép tế bào gốc để điều trị bệnh ĐTĐ: Dựa trên cơ sở khoa học: thứ nhất là tuyến tụy phải luôn luôn giữ số lượng tế bào bêta không thay đổi, nếu không sẽ xảy ra bệnh ĐTĐ, do đó vấn đề chủ yếu là sự đổi mới những tế bào này như thế nào; thứ hai, năm 2003, Markus Stoffel thuộc Đại học Rockfeller University đã nghiên cứu phát biểu rằng trong tủy xương có một nguồn tế bào tiền bối của những đảo nhỏ Langerhans tuyến tụy. Nhóm nghiên cứu của GS. Richard Burt ở Trường đại học Northwestern University de Chicago đã tiến hành thực nghiệm và công bố trong Journal of the American Medical Association (JAMA) công trình nghiên cứu theo dõi trong 3 năm trên một nhóm 23 bệnh nhân ĐTĐ. Nhóm bệnh nhân này đã được dùng phương pháp ghép các tế bào gốc lấy trong tủy xương của chính họ. Ưu điểm của kỹ thuật ghép này là bệnh nhân nhận các tế bào của chính mình nên không phải đối phó với hiện tượng cơ thể loại bỏ "mảnh ghép", không phải điều trị hủy bỏ miễn dịch suốt đời. Kết quả rất khả quan: 23 bệnh nhân không cần tiêm insulin mỗi ngày trong 14-50 tháng liền; một bệnh nhân trong hơn 4 năm, 4 bệnh nhân trong 3 năm và 3 bệnh nhân khác trong 2 năm không cần tiêm insulin; 15 bệnh nhân mới đã được thực nghiệm những cải tiến  mới nhất về kỹ thuật đã không cần đến insulin 19 tháng. Như vậy là sau phương thức ghép tế bào tụy tạng, phương pháp ghép tế bào gốc tủy xương đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong việc điểu trị bệnh ĐTĐ, mang lại hy vọng lớn cho bệnh nhân ĐTĐ.[18] Ghép tụy: Các nghiên cứu cấy ghép tụy nhân tạo kết hợp với dùng thuốc ức chế miễn dịch cho bệnh nhân (BN) ĐTĐ týp 1 đem lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên có nhiều thách thức khi áp dụng phương pháp này vào thực hành lâm sàng mà thách thức lớn nhất là thiếu nguồn cho tiểu đảo tụy. Để khắc phục thì có 2 hướng, thứ nhất là sử dụng tế bào nguồn đa dòng để cấy ghép mà không cần dùng các thuốc ức chế miễn dịch lâu dài để ngăn ngừa loại thải mảnh ghép; thứ 2 là cấy ghép dị loài từ insulin của lợn nhưng bị trở ngại bởi nguy cơ bị nhiễm khuẩn. Tụy nhân tạo: Về nguyên lý, tụy nhân tạo là một hệ thống được cấy vào trong cơ thể có khả năng đo đường máu liên tục và trên cơ sở đó sẽ hoạt hóa một bơm cơ học để phân phối insulin trực tiếp cho gan. Đây thực sự là một phương pháp cung cấp insulin rất sinh lý và có khả năng ứng dụng cao. Tuy nhiên trong thời gian tới vẫn cần có sự cải tiến nhiều nữa thì mới mong có được những thiết bị này. Bơm insulin: Đây là một hệ thống có độ chính xác rất cao, có một đầu kim được đặt ở dưới da và bơm insulin liên tục theo chế độ đặt sẵn. Hiện nay một số bơm dạng này đã được sử dụng trong điều trị một số BN ĐTĐ ở Mỹ và châu Âu. Lưu ý là chỉ nên sử dụng thiết bị này cho những BN được huấn luyện kỹ và dưới sự giám sát chặt của các nhân viên y tế. Dụng cụ đo đường máu không cần chích máu: Có tới hơn 90% các BN ĐTĐ không muốn thử đường máu mao mạch hằng ngày do sợ đau. Vì thế đo đường máu không cần chích máu là ước mơ của cả thầy thuốc và người bệnh. Đã có một bước tiến dài trong việc phát minh một đầu dò (sensor) có độ chính xác và nhạy, cho phép đo đường máu liên tục mà không cần chích máu, có khả năng lưu giữ số liệu và khả năng cảnh báo hạ đường máu. Phát minh này hỗ trợ rất nhiều cho kiểm soát tốt đường máu và làm giảm nguy cơ bị hạ đường máu, nhất là hạ đường máu không có triệu chứng. Kiểm soát đường máu quanh và sau bữa ăn: Muốn hạn chế biến chứng ĐTĐ thì phải kiểm soát tốt không những đường máu lúc đói mà cả đường máu quanh và sau bữa ăn bằng cách sử dụng insulin nhanh trước bữa ăn (lispro, aspart, glulisine và có thể cả insulin hít nữa). Dạng đồng phân của amylin là pramlintide, dùng vào trước bữa ăn và kết hợp với insulin đã được chứng minh có tác dụng làm giảm đường máu sau ăn, giảm HbA1C, giảm cân nặng và giảm liều insulin ở cả BN ĐTĐ týp 1 và ĐTĐ týp 2, có thể sắp được đưa ra thị trường. Tuy nhiên có một hạn chế là thuốc chỉ có dạng tiêm và lại không thể trộn lẫn với insulin nên phải tiêm nhiều lần. Điều trị làm giảm sự phá hủy tế bào beta do nguyên nhân tự miễn: Một số phương pháp điều trị bằng cách sử dụng kháng nguyên được cho là có vai trò trong quá trình tự miễn phá hủy tế bào beta gây bệnh ĐTĐ týp 1 bao gồm các mảnh của chuỗi insulin B, GAD64, và protein shock nhiệt (heat-shock protein) đang được thử nghiệm trên lâm sàng. Ngoài ra có nhiều nghiên cứu khác nhằm tìm ra các đích miễn dịch khác ở người và động vật bị ĐTĐ týp 1. Ví dụ nghiên cứu trên chuột NOD bị ĐTĐ thấy những phương pháp này có thể ngăn ngừa tiến triển của viêm các tiểu đảo tiết insulin và phòng ngừa được ĐTĐ týp 1. Tuy nhiên hiệu quả ở trên người thì còn phải nghiên cứu thêm. Các phương pháp tái tạo và kích thích tế bào beta phát triển và ức chế tế bào beta chết theo chương trình. Dựa trên đặc tính sinh học của tế bào beta, người ta đã thử nghiệm và phát hiện nhiều yếu tố có khả năng kích thích sự phát triển của các tiểu đảo tụy như GLP-1, exendin-4, IGF-1, nitric oxide, và các yếu tố chuyển dạng tế bào beta như yếu tố chuyển dạng tụy - tá tràng 1 (PDX-1)... ở động vật trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, người ta chưa rõ tính đặc hiệu của các tác nhân này. Bắt buộc phải điều trị kèm bằng các thuốc ức chế miễn dịch để phòng ngừa các tế bào beta mới được tái tạo bị phá hủy. Điều lý thú là hướng điều trị này có thể có hiệu quả ở cả các BN ĐTĐ týp 2. Insulin B làm giảm quá trình hủy tế bào beta gây bệnh ĐTĐ týp I. Các thuốc insulin không dùng đường tiêm: Insulin dạng hít: Insulin hít là 1 dạng thuốc thay thế insulin tiêm đang tiến gần đến hiện thực nhất. Gần đây, pha III của một thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng hít insulin trước các bữa ăn có thể đạt hiệu quả giống như tiêm insulin nhanh. Do thuốc insulin hít có thời gian tác dụng ngắn nên vẫn phải dùng phối hợp với các dạng insulin tiêm tác dụng chậm hoặc bán chậm để bảo đảm được nồng độ insulin nền và khả năng kiểm soát tốt đường máu suốt 24 giờ. Tuy nhiên, một lợi điểm không thể chối cãi của insulin hít là BN cảm thấy chất lượng cuộc sống tốt hơn, và họ hài lòng hơn với điều trị. Mặc dù cả các nhà nghiên cứu và BN đang mong đợi dạng thuốc này nhưng có lẽ cần có những nghiên cứu lớn hơn và lâu dài để xác định mức độ an toàn và hậu quả lâu dài của thuốc lên phổi cũng như tăng khả năng hấp thu thuốc vào máu, kỹ thuật tạo dạng sương mù, và quan trọng nhất là mức độ an toàn của phổi khi dùng thuốc trong thời gian dài. Insulin tấm dán: Nguyên lý giống như tấm dán nicotin dùng trong cai nghiện thuốc lá. Tuy nhiên, các phân tử nicotine có kích thước bé nên có thể được hấp thu dễ dàng qua da còn phân tử insulin to hơn nên không dễ được hấp thu. Để khắc phục trở ngại này, các nhà nghiên cứu đã cố gắng phát triển các phương pháp giúp insulin ngấm qua da tốt hơn như sử dụng siêu âm hoặc dòng điện, hoặc hóa chất để đưa insulin đi qua da. Insulin viên: Các nhà khoa học Mỹ đang nghiên cứu dạng thuốc insulin uống bằng cách kết hợp công nghệ sản xuất thuốc uống thông thường với công nghệ tấm dán, sản phẩm là các tấm dán nhưng không phải ở ngoài da mà ở trong thành ruột. Viên thuốc này được phủ bởi lớp polymer có tác dụng bảo vệ để không bị tan ở dạ dày, nhưng khi đến ruột thì nó sẽ bị tan ra rồi từ từ giải phóng ra insulin đi qua thành ruột. Các nghiên cứu hiện nay đang tập trung vào làm tăng khả năng bám dính của tấm dán vào lớp niêm mạc ruột và phát triển các hóa chất có khả năng giúp tăng cường tính thấm của thành ruột.[1] Trên đây là những biện pháp điều trị mang lại nhiều triển vọng cho người bệnh. Nhưng các nhà khoa học đang hướng tới một loại sản phẩm giúp đề phòng đối với những người bình thường có nguy cơ bị bệnh và đối với những bệnh nhân bị rồi thì sẽ hỗ trợ điều trị đối với căn bệnh tiểu đường này. Dòng sản phẩm đó chính là dòng sản phẩm thực phẩm chức năng hỗ trợ điều trị đái tháo đường. Chương II SẢN PHẨM CHỨC NĂNG PHÒNG & HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG. Mỗi phút trên thế giới có 6 người chết vì bệnh đái tháo đường (3,2 triệu người chết/năm), tương đương với số người chết do HIV/AIDS.[19] Theo thông báo mới nhất của Tổng hội Y học Việt Nam, bệnh viện nội tiết trung ương thì “ Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ gia tăng bệnh đái tháo đường nhanh nhất thế giới. Hiện cả nước có khoảng 4,5 triệu người mắc bệnh đái tháo đường trong đó có tới 65% người bệnh không biết mình mắc bệnh.[20] Chính vì vậy công việc nghiên cứu dòng sản phầm phòng và hỗ trợ điều trị đái tháo đường đang được cả thế giới chú tâm nghiên cứu. Và các nhà khoa học gọi đó là dòng sản phẩn thực phẩm chwucs năng phòng và hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. I. Tình hình nghiên cứu hiện nay về việc sản xuất và vai trò của dòng thực phẩm chức năng phòng, hỗ trợ điều trị đái tháo đường. Thị trường thực phẩm chức năng phòng và hỗ trợ điều trị đái tháo đường đang tăng nhanh tại Mỹ. Đã có rát nhiều nghiên cứu về các dòng sản phẩm mới[13]. Loại thực phẩm đang tăng nhanh này được gọi là thực phẩm chức năng hay thực phẩm y học. Chúng đang được nghiên cứu để giải quyết vấn đề dinh dưỡng của người bị bệnh tiểu đường. Với đặc điểm thuận tiện, dễ sử dụng, hương vị thích hợp những sản phẩm này đang được phát triển để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chúng là những thực phẩm lành mạnh giúp bệnh nhân tiểu đưởng kiểm soát được đường huyết và giảm nguy cơ biến chứng lâu dài.[21] Trong các sản phẩm này có sự hợp lý trong tỷ lệ tinh bột, chất xơ, tăng cường vitamin và khoáng chất, đặc biệt đáng chú ý là hàm lượng cao đối với loại vitamin C và E chống oxi hóa và crom cùng các dược thảo với việc sử dụng các phương pháp phi truyền thống. * Kháng tinh bột và chất xơ hòa tan. Trong chế độ dinh dưỡng đối với người tiểu đường thì số lượng tiêu thụ cacbohydrate quan trọng hơn là số lượng nguồn cung cấp cacbohydrate. Tuy nhiên các loại tinh bột khác nhau sẽ gây các phản ứng đường huyết khác nhau. Sự chống lại việc thủy phân tinh bột của các enzyme tiêu hóa làm cho việc tiêu hóa và hấp thụ đường chậm lại. Đây chính là một tính năng quan trọng của các sản phẩm thực phẩm chức năng trong phòng hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Lợi ích của kháng tinh bột bao gồm: Hạ thấp các phản ứng insulin. Cải thiện hiệu quả insulin trong giai đoạn sau bữa ăn. Cải tiến trong quá trình chuyển hóa lipid. Cải thiện năng lực fibrinolytic. Giàu chất xơ là một tính năng của thực phẩm chức năng dành cho bệnh nhân tiểu đường. Tất cả mọi người nhất là các bệnh nhân tiểu đường và những người có nguy cơ bị tiểu đường cao nên sử dụng 20-30g chất xơ/ngày từ cả hai nguồn hòa tan và không hòa tan. Các bệnh nhân tiểu đường bị hạn chế calo trong khẩu phần ăn có thể không đủ lượng chất xơ cần thiết . Một số tác dụng tốt của chế độ ăn giầu chất xơ: Hạ đường trong máu tăng postmeal Cải thiện độ nhạy cảm insulin Giảm hyperinsulinemia, Giảm cholesterol toàn hơn 5%, giảm LDL cholesterol Hạ thấp mức độ chất béo trung tính Thuận lợi đến các yếu tố đông máu. * Protein và chất béo Việc kết hợp của các protein và chất béo trong thực phẩm chức năng cho bệnh tiểu đường phục vụ mục đích cải thiện chức năng kiểm soát đường huyết và giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch. Chất béo sẽ được thêm vào vì những lý do sau đây: Phòng chống hạ đường huyết Làm chậm sự hấp thu carbohydrate, Giảm nguy cơ hạ đường huyết bằng cách kéo dài thời gian hấp thu chất dinh dưỡng và lối vào dòng máu như glucose. Ngoài ra còn một số yếu tố khác…nhưng thành phần quan trọng nhất ở đây chính là các chất dược thảo được chiết được con người chiết suất lấy. Nhưng mỗi sản phẩm và tùy từng đối tượng mà ta thu được các chất có tích chất khác nhau.[21] II. Một số dòng sản phẩm và tác dụng của chúng trong phòng và hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. 1, DIKAMO - Thực phẩm chức năng dành cho người đái tháo đường.[22] Công ty CP Dược VTYT Thành Vinh đã cho ra đời dòng sản phẩm DIKAMO hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường.Tác dụng của thực phẩm chức năng DIKAMO đối với người mắc bệnh đái tháo đường. Thực phẩm chức năng DIKAMO có chứa 2 thành phần chính là Mướp đắng và Trái nhàu . Quả Mướp đắng là thực phẩm được sử dụng lâu đời ở Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ... và được dùng trong y học cổ truyền nhiều nước để kích thích tiêu hóa, trị sốt rét, chống viêm... Đặc biệt quả mướp đắng được dùng để điều trị các bệnh nhân bị bệnh tiểu đường tuýp 2. Quả mướp đắng có chứa Charantia - một hợp chất có tác dụng làm hạ đường huyết, ức chế men Alpha glucosidase làm giảm hàm lượng glucose trong máu. Quả mướp đắng còn chứa cả Momordicosid F1, F2, G, K và L, các chất này cũng có hoạt tính chống bệnh đái tháo đường, ngoài ra còn có đa peptid - p và lectin. Lectin là một protein có hoạt tính tương tự insulin. Lectin có tác dụng làm giảm đường huyết. Quả mướp đắng có chứa nhiều vitamin như các vitamin B1, B2, B3, B6, B9 và B12, vitamin C, vitamin E. Các công trình nghiên cứu đã xác định cao quả Mướp đắng có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2 và còn xác định một số hoạt chất của quả mướp đắng có tác dụng ức chế HIV. Quả Nhàu được sử dụng rộng rãi lâu đời ở Việt Nam và nhiều nước khác để điều trị bệnh thấp khớp, tiểu đường, giải độc cho cơ thể và điều trị bệnh cao huyết áp. Quả Nhàu có chứa nhiều vitamin C, vitamin B3, sắt và Kali. Quả Nhàu có chứa các Oligo sacharid, các Polysaccharid, các Lignan, các Flavourid, các Iridoid, Scopoletin, Catechin và Damanacanthal. Các chất này có hoạt tính tăng cường miễn dịch, giải độc, chống oxy hóa, có tác dụng ức chế một số dạng ung thư. Nước ép Noni là thực phẩm chức năng có doanh thu cao nhất trong các cây cỏ sản xuất thực phẩm chức năng. Nước ép Noni gồm có nước ép quả Nhàu, quả Nho đỏ, quả Việt quất và mật ong. Noni có hoạt tính tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa hạ huyết áp, chống viêm khớp, thấp khớp và hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2. DIKAMO kết hợp cao quả Mướp đắng và cao quả nhàu là các nguyên liệu sẵn có ở nước ta để cung cấp cho nhu cầu cung cấp sản phẩm hỗ trợ điều bệnh tiều đường tuýp 2 có hiệu quả cao mà lại an toàn, không gây các tác dụng phụ. DIKAMO do Công ty cổ phần dược vật tư y tế Thành Vinh phân phối là sản phẩm hữu ích, hiêu quả hỗ trợ điều trị cao cho các bệnh nhân tiều đường tuýp 2. Người lớn ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 -2 viên. Đây là dòng sản phẩm có sự tham gia nghiên cứu của TS Phan Quốc Kinh. Phó chủ tịch Hội hóa dược Việt Nam - Phó chủ tịch Hiệp hội thực phẩm chức năng Việt Nam- Viện trưởng viện thực phẩm chức năng. Ảnh sản phẩm thực phẩm chức năng DIKAMO Giấy chứng nhận của sản phẩm được bộ Y tế chứng nhận. 2. Thực phẩm chức năng METABOSOL.[23][24][25] ĐTĐ là một bệnh gây ra nhiều biến chứng mãn nguy hiểm như: nhồi máu cơ tim, suy tim, cao huyết áp, tai biến mạch máu, nguyên nhân số một gây mù lòa, suy thận mãn, bệnh nhân rất dễ bị nhiễm trùng đưa đến cắt cụt chi. ĐTĐ gây cảm giác khó chịu như tê rần và đau nhức tay chân, chóng mặt, táo bón, tiêu chảy, ăn không tiêu (đôi khi lầm với đau bao tử), giảm khả năng tình dục… Điều cực kỳ nguy hiểm là người bệnh có thể bị  ĐTĐ từ rất lâu và có nhiều biến chứng mới được chẩn đoán. Trong điều trị ĐTĐ nhiều bệnh nhân có những suy nghĩ sai lầm, họ chỉ chăm chú vào lượng đường máu đói (thử lúc sáng sớm ngủ dậy) mà không để ý đường máu 2 giờ sau ăn (đo đường máu sau khi ăn 2 giờ). Chính lượng đường máu cao lúc này là tác nhân gây những bệnh tim mạch (gây tử vong nhiều nhất cho bệnh nhân ĐTĐ). Nhưng chúng ta biết đường (glucose) rất cần cho cơ thể, đặc biệt là  não. Khi đường máu hạ ta sẽ cảm thấy mệt, chóng mặt, toát mồ hôi, giảm hay mất ý thức làm té ngã (gây gãy xương, chấn thương), hôn mê và tử vong. Vậy bệnh nhân ĐTĐ cần biết: điều trị ĐTĐ là làm ổn định đường máu đưa đến sự cân bằng đường trong cơ thể. ĐTĐ cần sự điều trị liên tục, suốt đời cùng với điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục và sử dụng thuốc để đưa mức đường huyết đói xuống dưới 110mg/dl (6,1mmol/l) và đường huyết 2 giờ sau ăn dưới 180mg/dl (10mmol/l). METABOSOL là một thực phẩm chức năng gồm 8 loại thảo dược quý nhằm kích thích các cơ chế tự nhiên đưa đến sự cân bằng đường trong cơ thể. Những thảo dược trong METABOSOL có khả năng phục hồi GLUT4- là kênh vận chuyển glucose trên màng tế bào, làm tăng sự nhạy cảm của tế bào với insulin nên có tác dụng tăng vận chuyển glucose vào tế bào để sử dụng. Ngoài ra, những thảo dược này là  những chất oxy hóa mạnh, có tác dụng làm sạch các gốc tự do, phục hồi những tổn hại do sự oxy hóa gây ra, bảo vệ màng tế bào, giảm tình trạng viêm, giảm xơ cứng động mạch, tăng insulin máu, giảm đường máu, giảm huyết áp, giảm mỡ máu, tăng trí nhớ, giảm tình trạng thoái hóa thần kinh, cải thiện thị lực, tăng cường chức năng gan thận cũng như khả năng sinh hoạt tình dục ở bệnh nhân ĐTĐ. Những tác dụng của thảo dược.METABOSOL đã được công bố trên nhiều tạp chí y học chuyên ngành của Mỹ ( Sydney trial 2 Diabetes Care 29, 11:2006, 2365- 70; General pharmacology 29,3, 3:1997, 315-331; J Nat Prod 64, 4:2005, 2115- 2124; Life Science 76: 2005, 2115-2124….). Khi dùng METABOSOL sau 2-3 tháng đường máu đói và 2 giờ sau ăn được ổn định; mắt sáng hơn; những triệu chứng khó chịu như kiến bò, tê tay chân, ăm không tiêu, đầu bụng dần mất đi; trí nhớ; chức năng gan thận và khả năng sinh lý cải thiện một cách rõ rệt. Một số bệnh nhân có thể giảm dần hoặc bỏ luôn thuốc tây. METABOSOl có thể dùng chung với thuốc tây điều trị ĐTĐ típ1 và ĐTĐ típ 2. Thành phần: Alpha Liopic Acid, Lycium Fruit (kỷ tử), Morinda Citrifolia (nhàu), Dioscorea (hoài sơn), Cinnamon (quế chi), Cornus (Sơn thù), Pueraria (cát căn), Phellodendron amurense (hoàng bá). METABOSOL là sản phẩm gồm Alpha lipoic Acid (ALA) kết hợp với các thảo dược trong y học cổ truyền phương đông. Metabosol được kết hợp một cách hiệu quả nhất để tạo ra sự cân bằng cho các bệnh nhân đái tháo đường và các triệu chứng liên quan. Alpha – Lipoic Acid: Alpha–Lipoic acid (ALA) là hoạt chất có trong tự nhiên (gan, rau bina, súp lơ xanh, khoai tây) (J Biol Chem. 276(42): 2001, 38329-36). ALA là hoạt chất có tính oxy hóa rất linh hoạt. Trong cơ thể ti thể là nơ dự trữ năng lượng của tế bào sống. Sự suy giảm chức năng ti thể là nguyên nhân chính của quá trính lão hóa sinh học. Ti thể là nguồn sinh ra các gốc tư do trong quá trình ứng xuất mang tính oxy – hóa. Khi cơ thể lão hóa, các ti thể trở nên kém hiệu quả, tạo ra ít năng lượng, do vậy sinh ra nhiều gốc tự do. Ti thể cũng là cái đích mà gốc tự do tấn công mạnh nhất ( Proc.Natl. Acad.USA, 94: 3064-3069). ALA là chất chống oxy- hóa, có tác dụng quan trọng đối với các phản ứng đề Hydro trong ti thể. Ở trạng thái bị khử của ALA, dihydrolipoate có phản ứng với các kiểu hình oxy hoạt động như gốc superoxide, gốc hydroxyl, hypochlorid, peroxyl, oxy nguyên tử. ALA có khả năng bảo vệ màng tế bào khi tương tác với vitamin C và glutathione, nhờ đó có khả năng tái sinh vitamin E. Dihydrolipoate còn có khả nănng ngăn chặn cảm ứng kích thích Oxy- hóa thông qua việc khử sắt (Free Radical Biology anh edicine, 19,2: 1995, 227 – 250). ALA khả năng loại bỏ ion kim loại như Fe2+, Cu2+, dihydrolipoate có khả năng “ bắt” ion Cd2+ làm sạch các gốc tự do, tái tạo chất chống oxy- hóa của cơ thể và phục hồi các tổn hại do Oxy hóa gây ra. (General Pharmacology 29,3: 1997, 315– 331). Lượng Glucoza cao trong máu cũng gây ra sự ứng xuất mang tính oxy –hóa trong cơ thể. Mặt khác, ALA có khả năng phục hồi GLUT4- kênh vận chuyển glucoza trên màng tế bào. Do vậy ALA có tác dụng tăng sự nhạy cảm của cơ thể đối với insulin, có tác dụng tăng cường hấp thu glucoza (Exerc Sport Sci Rev, 31,2: 2003, 79 – 84). Kết quả một số nghiên cứu thử nghiệm ALA trên động vật và người khẳng định việc bổ trợ dinh dưỡng ALA có hiệu quả đối với các bệnh lý do trạng thái cường oxy hoán trong cơ thể gây ra như chứng tổn thương do thiếu cung cấp máu, tiểu đường, đục thủy tinh thể, thoái hóa thần kinh…(Free Radical Biology anh medicine, 19,2: 1995, 227 – 250); giảm đường glucoza trong máu, giảm huyết áp, ngăn ngừa các tổn thương do sự oxy hóa (Am J Hypertens, 16,3: 2003, 173 -1790, giảm chứng xơ cứng động mạch và viêm nhiễm gây ra, giúp cải thiện các triệu chứng thoái hóa thần kinh gậy ra do đái tháo đường, tăng trí nhớ cũng như thị lực (Neurologist, 13,3: 2007, 164 – 167), tăng cường chức năng gan (Free Radical Boology anh Medicine, 24,6: 1998, 1023 – 1039) và thận (Kidney Blood Press Res, 25(5–6): 2003, 303–314). Thảo dược: Các thảo dược như Kỷ tử (Lycium Fruit), Nhàu (Morinda citrifolia), Hoài Sơn (Dioscorea), Sơn Thù (Cornus), Hoàng bá (Phellodendron amurense), Quế Chi (Cinnamom), Cát Căn (Pueraria), được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền Trung Quốc, các nước Châu Á khác với công dụng giúp giải độc, tăng cường chức năng tuyến tụy, thận, gan, điều hòa nội ti61t, làm tăng cường sức khỏe và trường thọ. Ngoài ra Sơn Thù (Cornus) là loại quả ăn được phổ biến ở một số nước Châu Âu, Nhàu (Morinda citrifolia) được dùng là chất bổ dưỡng phổ biến ở Samoa và Tagiti, Quế Chi được sử dụng rộng rãi để làm gia vị ở khắp thế giới từ Châu Á–Trung Quốc đến Trung Đông, Châu Mỹ. Hiện nay các nghiên cứu đã phát hiện và khẳng định các hoạt chất có trong các loại thảo dược này tác dụng tốt cho sức khỏe. Kỷ tử: Có chứa các hoạt chất sinh học như Polisaccharid, glycopeptides, có các hoạt tính ngăn ngừa ung thư, quá trình Oxy hóa, đường máu cao và nâng cao sức đề kháng (life Science 76: 2005, 2115 -2124), ngăn ngừa u và chống quá trình pero–Oxy hóa chất béo (World J Gastroenterol 12,28 : 2006, 4478 – 4484). Nhàu có chứa hoạt chất chống oxy hóa như neolignan, americanin (J Nat Prod, 64,4: 2005, 592 -595), , glucoside có tác dụng chống sự phát triển tế bào ung thư (Cancer Res. 61,15: 2001, 5749 -5756) antraquinone và ester của đường và axit béo có tác dụng chống viêm nhiễm và tế bào ung thư (J Nat Prod 70,5: 2007, 754–757), dịch chiết từ quả nhàu có tác dụng chống tế bào u phát triển nhờ cơ chế ngăn ngừa sự phát triển mạch máu các tế bào này (Angiogenesis 6: 2003, 143–149) Hoài sơn: Được sử dụng trong điều trị các bệnh biếng ăn, tiêu chảy mãm tính, tiểu đường, rối loạn xuất tinh, khí hư, có tác dụng nâng sức đề kháng của cơ thể. Một số hoạt chất sinh học được tách chiết từ Hoài sơn như phenenthrenedione, althernanthin và một số glucopyranoside có tác dụng bảo vệ thần kinh và có tính chống oxy hóa (J Nat. Prod. 68: 2005, 1259 -1261). Sơn thù: Có các hoạt chất anthocyanin như dephinidin 3-O-beta-galactopyranoside, cyaniding 3-O-beta-galactopyranoside and pelargonidin 3-O-beta-galactopyranoside có tác dụng là chất chống oxy hóa (J Agri Food Chem, 50,9: 2002,2519–2523); cyaniding 3-O-glucoside có khả năng ức chế quá trình peroxy- hóa chất béo, ức chế tế bào ung thư (Life Sci., 78, 7: 2006, 777-784). Sơn thù có tác dụng tăng sự năng động của tinh trùng (Am J Chin med, 1997; 25 (3-4): 301-6, tăng GLUT4 mRNA và protein do đó nó biểu hiện thông qua sư gia tăng tế bào islet và tăng insulin sau khi cơ thể tiếp nhận và do đó tăng cường sự vận chuyển glucoza (Zhongguo Zhong Yao Za Zhi, 26, 12: 2001, 859- 862), tăng insulin trong huyết tương và giảm nồng độ glucoza trong máu qua cơ chế Atropin hoặc kích thích 4-diphenylacetoxy-N-methylpiperidine methiodide thông qua chất nhận muscarinic M(3) (J Pharm Pharmacol. 2004 Nov; 56 (11): 1443-7.); chống lại sự suy thoái do tiểu đường gây ra: Giảm glucoza, nâng cao thị giác, giảm sự tạo thành AGEs-phức chất giữa đường và protein, chất béo trong máu (AGEs–Advanced Glycation end– products) ở người có bệnh tiểu đường (Boil. Pharm. Bull.30,3: 2007, 520-526) Hoàng bá: Là các hoạt chất như betberin, aporphin, flavonoid có hoạt tính chống oxy hóa (J. Nat. Prod, 66:2003,1207- 1211), limonoid và alkaloid có tác dụng chống tế bào ung thư (Arch Pharm res., 30,1: 2007, 58- 63). Quế chi : Chứa tinh dầu có hoạt tính kháng nấm (Allergy, 50,12: 1995,995-999). Chiết xuất từ Quế chi có tác dụng tăng khả năng sử dụng đường, tăng sự tổng hợp glycogen, tăng phosphoryl- hóa chất nhận insulin. Với liều dùng từ 1-6 g/ ngày, Quế chi có khả năng giảm đường, triglyceride, LDL cholesterol và cholesterol tổng số đến 7-30% ở những người tiểu đường loại II. Việc bổ sung Quế chi vào thực đơn người tiểu đườnh có tác dụng giảm các triệu chứng liên quan đến tiểu đường loại II và bệnh tim mạch (Diabet Care, 26,12:2003, 3215 – 3218). Cát căn: Chứa nhi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu thực phẩm chức năng cho người đái tháo đường.doc