Tiểu luận Nghiệp vụ bảo lãnh các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển

Các văn bản pháp luật cho phép CTTC ra đời và hoạt động bao gồm.

- Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và CTTC ban hành ngày 24/05/1990, được thay thế bằng luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, có hiệu lực từ 1/10/1998.

- Nghị định số 79/2002 NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của CTTC.

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1649 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiệp vụ bảo lãnh các ngân hàng thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bộ. Khi nền kinh tế tiền tệ hoá cao, các giao dịch kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, thì không chỉ các tổ chức kinh tế mà kể cả các đơn vị sự nghiệp, các hộ gia đình, tư nhân đều có nhu cầu được bảo lãnh. Đồng thời, không chỉ những hoạt động sản xuất kinh doanh, mà cả nhu cầu tiêu dùng và các nhu cầu khác như văn hoá, giáo dục, y tế… đều là những đối tượng để xem xét bảo lãnh. Trong khi đó, các quy định trong quy chế bảo lãnh chưa theo kịp sự vận động này. Mặt khác, hiện chưa có luật về bảo lãnh ngân hàng; các văn bản dưới quy luật định về nghiệp vụ bảo lãnh cảu ngân hàng chưa đồng bộ. Điều này dẫn đến thiếu sự giám sát, quản lý chặt chẽ và thống nhất của các cơ quan quản lý, do vậy làm tăng khả năng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh. Đặc biệt, đối với quan hệ bảo lãnh có liên quan đến đối tác nước ngoài, các ngân hàng thường phải dẫn chiếu các điều lệ chung hay luật của nước ngoài để áp dụng. Việc này đôi khi gây ra nhiều thiệt thòi cho phía Việt Nam, đặc biệt là khi chúng ta chưa hiểu chính xác về thuật ngữ và các điều khoản mà họ đã quy định, mà đôi khi những thông lệ này không có lợi cho bên Việt Nam. - Năng lực của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên nhều doanh nghiệp chưa có sự hiểu biết thấu đáo về nghịêp vụ này, chưa nắm chắc được các quy định về bảo lãnh. Điều này đã gây không ít khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành bảo lãnh cho khách hàng. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện bảo lãnh của ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần xuất phát từ năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp còn yếu và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Phần lớn tài sản cố định là nhà xưởng, máy móc thiết bị đã lạc hậu, vốn lưu động phục vụ trong sản xuất kinh doanh hầu hết là vốn vay ngân hàng và chiếm dụng lẫn nhau. Hơn nữa, bản thân năng lực, trình độ, kinh nghiệm quản lý của các cán bộ trong doanh nghiệp cũng chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay. Chính vì vậy, nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp hiện nay rất lớn, song việc đáp ứng nhu cầu đó của các NHTM Việt Nam lại rất hạn chế. - Bảo lãnh cho các chương trình của Chính phủ còn mang tính cao cấp. Trong điều kiện nước ta, tín dụng chính sách nói chung và bảo lãnh nói riêng rất cần thiết nhằm hỗ trợ các chương trình mục tiêu kinh tế xã hội trọng điểm vì sự ổn định trước mắt và phát triển lâu dài của đất nước. Tuy nhiên, thực hiện bảo lãnh cho các đối tượng ưu tiên cũng đặt ra vấn đề cần xem xét. Theo chỉ định, các NHTM Việt Nam đã và đang thực hiện việc bảo lãnh cho các chương trình kinh tế quan trọng, cấp bách, ý nghĩa chính trị xã hội, song có nhiều chương trình, dự án hiệu quả kinh tế rất thấp, gây rủi ro rất lớn cho các NHTM khi đứng ra bảo lãnh. - Công tác thẩm định bảo lãnh còn mang nặng tình hình thức. Để đạt được mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động bảo lãnh thì việc phân tích đánh giá toàn diện đối với khách hàng và các dự án là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, ở khá nhiều ngân hàng, việc thẩm định này còn sơ sài, mang tính hình thức, đối phó. Nguyên nhân có thể do tác động của sự cạnh tranh mà các NHTM bỏ qua một số bước trong quy trình thẩm định, hoặc do nôn nóng muốn mở rộng kinh doanh, hoặc do trình độ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của việc nghiên cứu, thẩm định. Không những thế, việc thẩm định lại dựa trên cơ sở những nghiên cứu ở trạng thái tĩnh bằng các chỉ tiêu, các con số, nhiều khi chỉ thụ động lắp các số liệu đó vào công thức để tính toán, xem xét. - Công tác thanh tra, kiểm tra của NHNN đối với các NHTM về tình hình bảo lãnh còn nhiều hạn chế. Nhiều vụ việc đã không được phát hiện kịp thời và ngăn chặn có hiệu quả. - Năng lực một số cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của nghiệp vụ bảo lãnh. Cán bộ làm nghiệp vụ bảo lãnh chưa am hiểu nhiều về hoạt động bảo lãnh, trong đó có cả lãnh đạo của một số chi nhánh NHTM, nên rất hạn chế trong điều hành và phát triển hoạt động này. Khi thực hiện bảo lãnh, đặc biệt là bảo lãnh vay vốn nước ngoài, do các cán bộ thiếu trình độ về nghiệp vụ, ngoại ngữ, luật quốc tế… nên rất khó khăn khi thực hiện nghiệp vụ và tư vấn cho khách hàng. 2. Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng Tiếp tục hoàn thiện Quy chế Bảo lãnh ngân hàng. Theo quy chế hiện hành, khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh bao gồm: Các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam: Các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng: hợp tác xã và các tổ chức khác có đủ điều kiện quy định tại Điều 94 Bộ luật dân sự: các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác, liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong nền kinh tế, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đều phát sinh nhu cầu về vốn và đều là những đối tượng được tham gia vào hoạt động bảo lãnh. Mặt khác, không chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh, mà cả nhu cầu tiêu dùng và các nhu cầu khác như văn hoá, giáo dục, y tế.. đều là những chủ thể để ngân hàng có thể xem xét bảo lãnh. Do vậy, quy chế bảo lãnh hiện hành cần từng bước bổ sung đối tượng khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh, đảm bảo nhu cầu phát triển ngày càng đa dạng của nghiệp vụ này. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng phải đáp ứng yêu cầu quản lý, đảm bảo an toàn. Các NHTM phải xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp trong từng thời kỳ Để tránh tình trạng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách tràn lan, dẫn dến rủi ro như một số NHTM đã gặp phải trong thời gian qua, mỗi NHTM phải dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn để xây dựng cho mình một kế hoạch (dài hạn và hàng năm) phát triển nghiệp vụ bảo lãnh mang tính khả thi. Trong các kế hoạch này, cần xác định được quan điểm tư tưởng chủ đạo về ự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh, xác định được hệ thống các mục tiêu; đồng thời, xác định được phương thức, giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng trước khi bảo lãnh. Trong nghiệp vụ bảo lãnh, mặc dù ngân hàng không phải trực tiếp bỏ vốn của mình ra để giải ngân, nhưng thực chất thì mức độ rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng cũng tương ứng với mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay. Chính vì vậy, để đảm bảo đưa ra được một quyết định bảo lãnh đúng đắn, các cán bộ thực hiện bảo lãnh (cán bộ tín dụng) phải tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án sử dụng vốn của bên yêu cầu bảo lãnh theo đúng quy trình thẩm định một món vay theo cơ chế tín dụng hiện hành. Trong thẩm định, ngân hàng không chỉ căn cứ vào thông tin một chiều từ phía khách hàng cung cấp, mà phải có được thông tin đa chiều để so sánh, đối chiếu để so sánh, đối chiếu và phân tích, trên cơ sở đó mới ra quyết định bảo lãnh. Mọi khoản bảo lãnh, trước hết, phải được xem xét về khả năng thực hiện các hợp đồng kinh tế, năng lực tài chính cũng như kinh doanh của đối tượng đề nghị bảo lãnh, còn các tài sản của đối tượng đề nghị bảo lãnh còn các tài sản bảo đảm chỉ là nguồn thu dự phòng. Tăng cường quỹ ngoại tệ của các NHTM để sẵn sàng thanh toán với nước ngoài. Trong giao dịch bảo lãnh mà người thụ hướng là cá nhân hay tổ chức kinh tế nước ngoài thì vấn đề uy tín có ý nghĩa quan trọng. Trong trường hợp ngân hàng phải thanh toán thay cho người được bảo lãnh, thì với không ít ngân hàng, việc thu xếp đủ nguồn vốn ngoại tệ để thanh toán là một vấn đề nan giải nếu như các ngân hàng không dự tính ngay từ lúc phát hành bảo lãnh, chính vì vậy, các NHTM Việt Nam phải đặc biệt quan tâm tới việc tạo lập nguồn ngoại tệ sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ với đối tác nước ngoài. Tăng cường quan hệ hợp tác giữa các ngân hàng (trong và ngoài nước) để đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh, tái bảo lãnh. Theo Luật các tổ chức tín dụng và Quýêt định 283/2000 QĐ - NHNN 14 của Thống đốc NHNN đã quy định, tổng số dư bảo lãnh cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Vì vậy, việc thực hiện bảo lãnh có giá trị lớn rất khó khăn với một ngân hàng đơn lẻ. Đồng bảo lãnh là một giải pháp vừa giúp cho ngân hàng có thể tham gia các dự án lớn, khi mà khả năng về vốn là có hạn, vừa phân tán bớt rủi ro cho ngân hàng khác cũng tham gia, qua đó, sẽ có sự kết hợp kinh nghiệm, sức mạnh, khả thi để hỗ trợ giữa các ngân hàng. Để thực hiện được điều này mỗi NHTM cần phải đặt ra cho mình một chiến lược về hợp tác phát triển, cụ thể như sau: + Với các chi nhánh trong cùng một hệ thống: Theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh của mỗi ngân hàng để tham gia đồng bảo lãnh đối với các dự án lớn vượt khả năng của một ngân hàng. Bên cạnh việc thắt chặt mối quan hệ giữa các ngân hàng trong nước, hệ thống NHTM Việt Nam cũng cần phải không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với NHTM các nước trên thế giới, mở rộng giao dịch bảo lãnh ra ngoài biên giới, đáp ứng nhu cầu mở rộng thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý các hợp đồng bảo lãnh Kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được trong nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, đối với hoạt động bảo lãnh, quy trình này thường bị buông lỏng. Để tránh rủi ro xảy ra khi khách hàng không thực hiện hay thực hiện sai các hợp đồng kinh tế, thì sau khi chấp nhận và phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng cần duy trì việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất tình hình hoạt động và năng lực tài chính của doanh nghiệp được bảo lãnh, thông qua quá trình kiểm tra, giám sát, ngân hàng cũng có thể tư vấn cho khách hàng các biện pháp thực hiện có hiệu quả hợp đồng kinh tế, đồng thời giải quyết kịp thời những khó khăn phát sinh. Giải quyết tốt các khoản nợ đã thay cho khách hàng tại các NHTM Nợ tồn đọng tại các ngân hàng hiện đang là vấn đề nan giải, ảnh hưởng đến tình hình tài chính của các ngân hàng. Nợ quá hạn của bảo lãnh, đặc biệt là các khoản bảo lãnh mở L/C trả chậm đã làm trầm trọng hơn nợ quá hạn của các ngân hàng. Xử lý nợ quá hạn được coi là nội dung quan trọng để thực hiện chiến lược cơ cấu lại và tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. Để thực hiện tốt vấn đề này, các ngân hàng cùng khách hàng cùng khách hàng cần kiểm tra, xác định lại từng khoản nợ và đề ra biện pháp xử lý cụ thể trên nguyên tắc hai bên cùng thoả thuận về việc xếmt thời hạn nợ, lãi suất, xử lý tài sản đảm bảo, chuyển nợ thành cổ phần của các ngân hàng tại các doanh nghiệp, cho vay tiếp tục để phục hồi sản xuất tạo nguồn trả nợ. Đối với những khoản nợ vay bắt buộc còn vật tư hàng hoá, thì phải đôn đốc doanh nghiệp tiêu thụ hàng để trả nợ ngân hàng. Đối với những khoản nợ chỉ còn tài sản thế chấp, bảo lãnh cầm cố, thì phải tiến hành phát mại, đấu giá công khai để thu hồi nợ. Thành phần bộ phận riêng để thực hiện và theo dõi nghiệp vụ bảo lãnh. Hiện nay nghiệp vụ bảo lãnh tại các NHTM thường được giao cho nhiều phòng chức năng đảm nhận tuỳ thuộc vào loại hình bảo lãnh mà ngân hàng thực hiện như: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung dài hạn, thanh toán quốc tế. Các ngân hàng chưa thành lập bộ phận riêng để thực hiện và theo dõi nghiệp vụ này. Với mô hình tổ chức thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh như hiện nay, việc thực hiện sẽ có những hạn chế nhất địh, do không mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ, cũng như việc theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng hợp đồng. Vì vậy trong thời gian tới các ngân hàng cần thành lập một bộ phận riêng để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phù hợp với quy mô của từng ngân hàng. Đẩy mạnh hoạt động marketing bảo lãnh ngân hàng. Các NHTM Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nên xây dựng cho mìnhmột chính sách marketing hỗn hợp gồm 4 chính sách bộ phận sau: Chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách giao tiếp khuếch trương. Đối với chính sách sản phẩm, các hình thức bảo lãnh ở các NHTM Việt Nam còn đơn điệu. Do vậy, các NHTM Việt Nam phải sớm đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh như: Đẩy mạnh bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh hoàn thanh thanh toán. đồng thời nghiên cứu ứng dụng một số loại hình bảo lãnh mới như bảo lãnh chứng khoán, bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh thương phiếu.. Đối với chính sách giá cả, mức phí bảo lãnh tối đa theo quy định chung là 2% năm trên số tiền đang được bảo lãnh. Tuy nhiên, mỗi ngân hàng cần phải xây dựng chính sách phân biệt giá cả với từng loại khách hàng cụ thể, nhưng vẫn nằm trong khung giá cho phép. Việc phân biệt giá cả có thể được thực hiện theo hướng sau: + Phân biệt khách hàng: tuỳ theo các khách hàng khác nhau, dịch vụ ngân hàng được cung ứng với mức phí khác nhau. Những khách hàng lớn, làm ăn lâu dài, có tín nhiệm có thể có mức phí ưu đãi. + Phân biệt sản phẩm: Tuỳ theo tính phức tạp trong dịch vụ cung ứng, chất lượng dịch vụ cung ứng và mức độ rủi ro tiềm tàng để có mức phí phù hợp. Một trong những nhược điểm của các NHTM Việt Nam hiện nay là chưa chú trọng đến việc quảng bá sản phẩm của mình. Bản chất của hoạt động bảo lãnh là ngân hàng sử dụng uy tín của mình để đứng ra bảo đảm cho các giao dịch, do vậy, ngân hàng cần tạo dựng cho mình hình ảnh nổi bật trên thương trường, tạo dựng niềm tin trong khách hàng. Đội ngũ cán bộ là điểm mấu chốt trong giao tiếp với khách hàng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng. Trong hoạt động bảo lãnh, khi cung cấp một loại hình bảo lãnh mới, các NHTM cần quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, gửi thông báo cho các khách hàng truyền thống và các khách hàng tiềm năng về tính ưu việt của sản phẩm nhằm kích thích nhu cầu của khách hàng. Đây chính là những biện pháp hiệu quả để phát triển hoạt động bảo lãnh của các NHTM Việt Nam. Đánh giá khả năng tham gia thị trường chứng khoán của Công ty tài c chính ở Việt Nam 1. Vài nét về Công ty tài chính Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, trong đó có các Công ty tài chính (CTTC) được hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một số hoạt động ngân hàng nhằm khắc phục và hạn chế các khiếm khuyết của các ngân hàng và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường. Các CTTC chủ yếu tập trung vào các hoạt động như phát hành các giấy tờ có giá (GTCG) huy động vốn trung và dài hạn, cho vay trung và dài hạn và thực hiện một số dịch vụ tài chính khách như kinh doanh vàng, bạc, đá quý, mua bán chuyển nhượng chứng khoán… việc thực hiện các hoạt động như vậy góp phần tạo cho các CTTC những điều kiện để tham gia vào thị trường chứng khoán (TTCK) với tư cách vừa là Công ty niêm yết chứng khoán, vừa là nhà đầu tư chuyên nghiệp trên TTCK. ở Việt Nam , theo điều 2 Nghị định 79/2002/NĐ - CP ban hành ngày 04/11/2002 của Chính phủ, CTTC được định nghĩa như sau:" Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư ấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm" Như vậy, chức năng trung gian tài chính củav các CTTC có thể được mô tả là họ đi vay các món tiền lớn nhưng lại thường cho vay các món tiền nhỏ. Hoạt động này hoàn toàn khác với hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) là huy động các món tiền gửi lẻ tẻ với số lượng nhỏ và sau đó cho vay với số lượng lớn. Ngoài ra một sự khác biệt cơ bản nữa giữa CTTC với NHTM là các CTTC không chịu sự điều tiết khắt khe của NHTW như các NHTM, do vậy chúng có điều kiện cung cấp các khoản tín dụng hấp dẫn hơn cho khách hàng. 2. Tình hình hoạt động của Công ty tài chính ở Việt Nam 2.1. Cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của các Công ty tài chính ỏ Việt Nam Các văn bản pháp luật cho phép CTTC ra đời và hoạt động bao gồm. - Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và CTTC ban hành ngày 24/05/1990, được thay thế bằng luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, có hiệu lực từ 1/10/1998. - Nghị định số 79/2002 NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của CTTC. * Đối với các CTTC trong tổng Công ty Nhà nước - Nghị định 39/NĐ - CP của Chính phủ ban hành ngày 27/06/1995 về việc ban hành điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của các tổng Công ty (TCT) Nhà nước. - Quyết định số 104/QĐ - NH5 ban hành ngày 02/05/1996: Mẫu điều lệ CTTC trong TCT Nhà nước - Thông tư số 03/1998/TT - NHNN5 của ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 20/03/1998: Hướng dẫn thực hiện cấp giấy phép hoạt động cho các CTTC trong TCT Nhà nước. Theo các văn bản này, CTTC thực hiện chức năng huy động vốn để cho vay, phục vụ nhu cầu vốn của TCT, các đơn vị thành viên, các doanh nghiệp mà TCT góp vốn và các doanh nghiệp trong cùng ngành kinh tế kỹ thuật, thực hiện một số dịch vụ khác trong lĩnh vực tài chính tiền tệ theo quy định của pháp luật. - Về tổ chức: Đây là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc TCT, theo đó TCT quản lý về chiến lược, tổ chức nhân sự, còn ngân hàng Nhà nước (NHNN) quản lý về nội dung và phạm vi hoạt động, Hội đồng quản trị TCT bổ nhiệm giám đốc CTTC và NHNN chuẩn y. - Về phạm vi hoạt động: nội bộ TCT, các doanh nghiệp thành viên các đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật và được mở chi nhánh khi được phép. - Về nội dung hoạt động + Nguồn vốn: các CTTC trong TCT Nhà nước nhận tiền gửi có kỳ hạn của TCT, các đơn vị thành viên của TCT và của các doanh nghiệp cùng ngành kinh tế kỹ thuật, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. + Sử dụng vốn: Việc sử dụng vốn của các CTTC trong TCT Nhà nước bao gồm cho vay, đầu tư tài chính, tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư trong và ngoài nước, điều hoà vốn nhàn rỗi, đại lý phát hành chứng khoán và tư vấn tài chính. - Các quy định về an toàn: Cho vay 1 khàch hàng < 10% vốn tự có (nếu là TCT doanh nghiệp thành viên < 15%) cho vay 1 dự án <20% vốn tự có (nếu TCT bảo lãnh <30%), dư nợ cho vay 10 khách hàng lớn nhất < 30% tổng dư nợ vốn huy động < 20 % lần vốn tự có, dư nợ cho vay đối với các cổ đông của Công ty <5% vốn tựcó. * Đối với CTTC cổ phần - Quyết định số 07 - QĐNH của ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 18/01/1991: mẫu điều lệ của CTTC cổ phần. - Thông tư ngày 17/01/1991 của NHNN hướng dẫn thực hiện quy chế cấp giấy phép hoạt động cho các CTTC cổ phần. Theo các văn bản này, CTTC cổ phần hoạt động theo các quy định sau: - Về tổ chức: Là Công ty cổ phần có cơ quan quyết định cao nhất là Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông sẽ bầu ra Hội đồng Quản trị và ban kiểm soát để quản trị và kiểm soát hoạt động kinh doanh của Công ty. Điều hành hoạt động của Công ty Tổng giám đốc. - Về phạm vi hoạt động: Tại trụ sở chính của Công ty và được mở các chi nhánh khi được phép của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. - Về nội dung hoạt động: + Nguồn vốn: Bao gồm vốn tự có (vốn điều lệ, quy, lãi không chia) và vốn huy động trên cơ sở phát hành tín phiếu và các giấy giờ có giá khác khi được phép. Các CTTC cũng được phép vay từ các TCTD hay nhận uỷ thác (khi được phép). + Sử dụng vốn: Cho vay ngắn hạn: dài hạn, góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh vàng ạc, tư vấn tài chính và thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại hói khi được phép. - Các quy định về an toàn: tương tự như đối với CTTC Nhà nước. 2.2. Quá trình thành lập các Công ty tài chính ở Việt Nam Từ năm 1991 đến nay, ở nước ta có 7 CTTC được ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Trong đó có 2 CTTC cổ phần là CTTC cổ phần Sài Gòn (SFC) và CTTC cổ phần Seaprodex (SEAFIC), 5 CTTC thuộc TCT là Công ty tài chính Dệt - May, Cao su, Bưu điện, công nghiệp tàu thuỷ và Dầu khí. Bảng 1. Quá trình thànhlập các Công ty tài chính ở Việt Nam TT Tên Công ty Năm thành Trụ sở chính Vốn điều lệ tỷ đồng 1 CTTCCP Sài Gòn 1991 TP.Hồ Chí Minh 2 CTTCCP Xeaprodex 1992 TP.Hồ Chí Minh 3 CTTC Dệt - May 1998 TP.Hồ Chí Minh 4 CTTC Cao su 1998 TP.Hồ Chí Minh 5 CTTC Bưu Điện 1998 TP. Hà Nội 6 CTTC CN tàu thuỷ 2000 TP. Hà Nội 7 CTTC Dầu khí 2000 TP. Hà Nội Nguồn: Báo cáo hoạt động của CTTC Bảng trên cho thấy, các CTTC mới chỉ chính thức đi vào hoạt động được khoảng 10 năm, với số vốn điều lệ tương đối thấp (trong khi mức vốn điều lệ của các NHTM cổ phần cỡ trung bình ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là 70 tỷ đồng). Với số vốn nhỏ bé như vậy, các CTTC khó có thể thực hiện được tài trợ cho các dự án và cũng không tạo được uy tín trong quan hệ với các CTTC nước ngoài. Vì vậy, hiện nay các CTTC này đều có kế hoạch tăng vốn điều lệ lên khoảng 100 tỷ VNĐ, nhưng đang gặp rất nhiều khó khăn. 2.3. Tình hình hoạt động 2.3.1. Về nguồn vốn - Về tổng nguồn vốn: Tuy mới chính thức đi vào hoạt động chưa lâu, nhưng nguồn vốn của các CTTC nhìn chung có xu hướng ngày càng tăng, chứng tỏ mô hình trung gian tài chính này đang dần dần khẳng định được vị trí trong nền kinh tế nước ta. Có thể thấy rõ điều này qua biểu đồ sau: Nguồn: Báo cáo hoạt động của các CTTC Căn cứ vào biểu đồ trên, ta thấy tổng nguồn vốn của các CTTC ở Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng tăng với tốc độ rất nhanh. Nếu như từ năm 1999 đến năm 2000 tốc độ tăng là 152,91% thì con số này đến năm 2001 đã là 187,76% và năm 2002 là 204,22%. Chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2003, tổng nguồn vốn của các CTTC đã là 4566,49 tỷ đồng, cao hơn nhiều so với cuối năm 2002 (3373,65 tỷ đồng), chứng tỏ tiềm năng phát triển rất lớn của các CTTC. Tuy nhiên, so với tổng nguồn vốn của các NHTM, nguồn vốn của các CTTC chiếm tỷ lệ rất nhỏ, thể hiện khả năng cạnh tranh của họ so với các NHTM còn rất thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do mô hình này mới xuất hiện ở Việt Nam và do tâm lý quen giao dịch với ngân hàng của người dân Việt Nam. Sở dĩ tổng nguồn vốn của các CTTC tăng nhanh như vậy là do sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của các CTTC trong CTC. Trong 2 CTTC cổ phần, chỉ có CTTC cổ phần Sài Gòn được đánh giá là có hoạt động tương đối tốt, còn CTTC Seaprodex thì có nguồn vốn liên tục giảm qua các năm (từ 107,48 tỷ đồng năm 1999 xuống chỉ còn 50,15 tỷ đồng năm 2002). Do đó, hiện nay cả 2 Công ty này đều đang xây dựng phương án sáp nhập ( Công ty Seaprodex vào NHTM cổ phần nông thôn Đà nẵng, CTTC cổ phần Sài Gòn sáp nhập vào NHTM cổ 9phần phát triển nhà Thành Phố Hồ Chí Minh). Do vậy, trong thời gian tới, trên địa bàn cả nước sẽ không còn tồn tại mô hình CTTC cổ phần. - Về cơ cấu nguồn vốn: Vốn tự có chiếm 15,87% nguồn vốn hoạt động (hơn 380 tỷ VNĐ) các nguồn vốn khác chiếm 84,13% tổng nguồn vốn. Riêng đối với CTTC trong TCT, vốn tự có chiếm trên 76% tổng nguồn vốn. Vốn đi vay chỉ chiếm 12,3% số còn lại là vốn uỷ thác đầu tư. Nguồn: Báo cáo hoạt động của các Công ty tài chính Biểu đồ 2 cho thấy, trong cơ cấu nguồn vốn của các CTTC,vốn huy động chiếm tỷ trọng 16,91% tổng nguồn vốn. Để thực hiện có hiệu quả công tác huy động vốn, các CTTC đã tìm mọi hình thức huy động như phát hành kỳ phiếu có đảm bảo bằng vàng, tín phiếu bằng VNĐ và bằng ngoại tệ, chia nhiều kỳ hạn trả lãi. Đây là một nguồn rất quan trọng, nhất là đối với hoạt động của một trung gian tài chính. TTCK Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động là tiền đề tốt cho việc phát hành giấy tìơ có giá (GTCG) một hình thức huy động vốn phổ biến của các CTTC. Lượng vốn huy động của các CTTC ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 6 - 2003 thông qua việc phát hành GTCG tăng hơn 10 lần từ 38,357 tỷ đồng lên 421,17 tỷ đồng. Vốn huy động thông qua phát hành GTCG chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn vốn của các CTTC, từ 5,06% (năm 2000) lên tới 11,08% (6/2003). Điều này chứng tỏ tiềm năng rất lớn của các CTTC khi thamgia vào TTCK cả với tư cách là Công ty niêm yết chứng khoán lẫn vai trò là nhà đầu tư chuyên nghiệp. Thực tế cho thấy, vào thời điểm năm 1999 các CTTC cổ phần thu hút được một lượng vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá (GTCG) mà chủ yếu là khì phiếu có đảm bảo bằng vàng, tín phiếu bằng VNĐ và bằng ngoại tệ khá lớn. Bên cạnh đó, CTTC Cao su là một trong những điển hình của các CTTC thuộc tổng Công ty Nhà nước trong việc phát hành GTCG. Trong những năm 1999, CTTC Cao su đã thu hút được số vốn xấp xỉ 41% vốn điều lệ thông qua phát hành GTCG. Đây là một dấu hiệu đáng mừng từ phía các CTTC Nhà nước trong việc chủ động tìm nguồn huy động, không còn dựa dẫm nhiều vào việc cấp vốn từ phía Nhà nước. Trong 3 năm 2000, 2001, 2002 sự xuất hiện thêm 2 CTTC thuộc TCT Nhà nước là CTTC công nghiệp tàu thuỷ và CTTC dầu khí đã làm cho tình hình phát hành GTCG của các CTTC trở nên sôi nổi hơn. Điều này có thể thấy rõ qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình phát hành GTCG của các CTTC ở Việt Nam Tên CTTC 2000 2001 2002 CTTC cổ phần Sài Gòn 6,5 11,64 14,71 CTTC cổ phần Seaprodex 2,1 1,49 1,07 CTTD Dệt - May 2,59 0,7 4,8 CTTC Cao Su 14 0,26 30,86 CTTC Tàu Thủy 2,91 29,49 41,95 CTTC Bưu Điện 10,25 37,77 92,29 CTTC Dầu khí - - - Nguồn: NHNN Đứng ở vị trí số một là CTTC Bưu điện. ở Việt Nam , Bưu điện vẫn là một ngành độc quyền, vì vậy GTCG do Công ty này phát hành rất được ưa chuộng. Chính vì nguyên nhân này nên trong 3 năm qua, lượng vốn huy động thông qua hình thức phát hành GTCG của Công ty này luôn giữ vị trí đầu bảng. Ngoài ra CTTC Cao su cũng khá thành công t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28336.doc
Tài liệu liên quan