Tiểu luận Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thừa kế theo luật của người để lại di sản thì cần phải xác định: nếu họ chỉ từ chối việc nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo luật, do vậy, họ là nhân suất để xác định một suất thừa kế theo luật; nếu họ từ chối việc nhận di sản theo pháp luật thì họ không phải là người thừa kế theo luật nữa. Do vậy họ không phải là một nhân suất khi xác định một suất thừa kế. Từ việc phân tích trên cho chúng ta nhận thấy hiện đang còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Qua đó chúng ta cần xác định như sau: Lấy tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất (trừ người đã bị tước, bị truất, người từ chối theo luật đã từ chối toàn bộ). Vì vậy 2/3 của một định suất được tính theo công thức: tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất thừa kế rồi nhân với 2/3. Sau khi áp dụng công thức trên thì tính được 2/3 của một suất thừa kế theo luật cụ thể là bao nhiểu thì việc trích từ phần di sản nào để cho người thừa kế được.

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10761 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úc và theo pháp luật. Người được thừa kế theo Điều 669 BLDS không có tên trong di chúc và họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản nhưng vẫn giả sử di sản được chia theo pháp luật để xác định suất thừa kế mà họ được hưởng. Ví dụ: A và B là hai vợ chồng họ có mộ con là C. A chẳng may chết và đề lại di chúc cho con C toàn bộ di sản là căn nhà trị giá 60 lượng vàng, tuy nhiên căn cứ quy định trên, khi anh A qua đời thì con chị chỉ được hưởng 40 lượng, chồng chị được hưởng 20 lượng. Bởi vì nếu chia theo pháp luật (thừa kế hàng thứ nhất chỉ có 2 người) thì mỗi người được hưởng 60:2= 30 lượng, mức hưởng thừa kế không phụ thuộc di chúc của chồng là 2/3 của 1 suất, tức 2/3 x 30 = 20 lượng, vậy người con chỉ còn 60 – 20 = 40 lượng. Hay trong trường hợp hai vợ chồng lấy nhau được 10 năm và có hai con ( 9 tuổi và 3 tuổi). Người chồng mất và để lại di chúc là để lại toàn bộ căn nhà trị giá 570 triệu người chồng xây trước khi kết hôn cho em của người chồng. Bố mẹ chồng cũng đã mất từ lâu, người vợ không di làm chỉ ở nhà chăm sóc hai con nên hiện giờ rất khó khăn. Giải quyết trường hợp này chúng ta thấy: Vì bố mẹ chồng đã mất, người vợ và hai con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, cả hai con đều chưa thành niên nên căn cứ vào khoản 1 Điều 669 thì vợ và hai con là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Vì người vợ đã viết di chúc để lại toàn bộ căn nhà cho người em trai, nên người vợ và hai con mỗi người được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc mà anh chồng để lại là 570 : 3 x 2/3 = 380/3. Người em trai của người chồng sẽ được hưởng phần di sản là 570- 380/3 x 3= 190 triệu đồng. 3. Vấn đề xác định hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Chia như thế nào để xác định một định suất thừa kế theo pháp luật ?. Về nguyên tắc, một suất thừa kế theo luật là kết quả của một phép chia, trong đó số bị chia là tổng giá trị di sản thừa kế mà như đã xác định thì di sản thừa kế là toàn bộ di sản của người chết để lại sau khi đã trừ đi các nghĩa vụ về tài sản cảu người chết để lại và các khoản chi phí có liên quan, số chia là tổng những người thừa kế theo pháp luật (những nhân suất). Trong thực tế, việc xác định được một suất thừa kế để từ đó xác định 2/3 của nó không đơn giản như chỉ đơn thuần như một phép chia số học. Việc xác định xem ai là nhân suất còn có nhiều quan điểm khác nhau. Cần lưu ý những người sau đây có phải là một nhân suất hay không: người không có quyền hưởng di sản theo Điều 643, người thừa kế theo Điều 669 bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản, người từ chối nhận di sản. Việc người từ chối nhận di sản thì họ sẽ không được nhận di sản nữa kể cả chia theo pháp luật. Tuy nhiên cần phải xem xét trong những tình huống cụ thể sau : - Những người không có quyền hưởng di sản theo Điều 643 BLDS: Những người không có quyền hưởng di sản bao gồm cả những người thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế theo di chúc. Nhưng để được coi là một nhân suất để tính một suất theo luật thì ta chỉ xem xét nếu họ là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc. Đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên pháp luật không cho họ hưởng di sản. Theo Điều 643, những người này bao gồm: “ a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.” Những người này có được coi là nhân suất khi xác định một suất theo luật hay không, hiện nay còn tồn tại hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đây là những người đáng lẽ được hưởng di sản nhưng do có những hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nên họ bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản. Do đó, họ không còn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Vì vậy không được tính họ vào nhân suất để xác định một suất theo luật. Quan điểm thứ hai cho rằng, cho dù bị tước quyền hưởng di sản nhưng những người này vẫn phải được coi là nhân suất để tính một suất theo luật vì nếu không như vậy dễ dẫn đến trường hợp “kỷ phần bắt buộc” có thể ít hơn bằng hay thậm chí lớn hơn một suất của một người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp bình thường. Theo em, quan điểm thứ nhất hợp lý hơn, bởi lẽ, cách tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật là giả định di sản được chia theo pháp luật. Nếu di sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên sẽ không thể chia cho những người bị tước quyền hưởng di sản. Vì vậy, những người này không được coi là một nhân suất để tính 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. - Những người bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản: Đây là những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Nếu không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu, di sản được chia theo pháp luật thì đương nhiên họ sẽ được hưởng di sản. Sở dĩ họ không được hưởng di sản bởi vì người lập di chúc đã truất quyền hưởng di sản của họ. Vì vẫn là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản, nếu di sản được chia theo pháp luật họ vẫn được hưởng di sản thừa kế, do đó, họ phải được coi là nhân suất khi tính một suất theo luật. - Những người từ chối quyền hưởng di sản: Đây có thể là những người thừa kế theo pháp luật cũng có thể là những người thừa kế theo di chúc. Họ có quyền hưởng di sản theo pháp luật cũng như theo di chúc (nếu người lập di chúc cho họ hưởng). Về vấn đề người từ chối hưởng di sản có được coi là nhân suất để xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật hay không theo chúng tôi phải chia làm hai trường hợp: + Nếu người từ chối chỉ là người thừa kế theo di chúc (không thuộc diện và hàng thừa kế, không có quan hệ hôn nhân, huyết thống nuôi dưỡng với người để lại di sản) thì đương nhiên họ không phải là nhân suất khi xác định một suất thừa kế theo luật (bởi lẽ nếu di sản được chia theo pháp luật thì không chia cho những người này). + Nếu người từ chối nhận di sản là người thừa kế theo di chúc đồng thời là người thừa kế theo luật của người để lại di sản thì cần phải xác định: nếu họ chỉ từ chối việc nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn là người thừa kế theo luật, do vậy, họ là nhân suất để xác định một suất thừa kế theo luật; nếu họ từ chối việc nhận di sản theo pháp luật thì họ không phải là người thừa kế theo luật nữa. Do vậy họ không phải là một nhân suất khi xác định một suất thừa kế. Từ việc phân tích trên cho chúng ta nhận thấy hiện đang còn nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Qua đó chúng ta cần xác định như sau: Lấy tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất (trừ người đã bị tước, bị truất, người từ chối theo luật đã từ chối toàn bộ). Vì vậy 2/3 của một định suất được tính theo công thức: tổng giá trị di sản thừa kế chia cho tổng nhân suất thừa kế rồi nhân với 2/3. Sau khi áp dụng công thức trên thì tính được 2/3 của một suất thừa kế theo luật cụ thể là bao nhiểu thì việc trích từ phần di sản nào để cho người thừa kế được. Về vấn đề này, BLDS Cộng hòa Pháp có quy định rất rõ ràng: “Người thừa kế khước từ di sản được coi như chưa bao giờ là người thừa kế” (Điều 785). Nếu theo quan điểm này thì người từ chối hưởng di sản sẽ không được coi là một nhân suất khi xác định một suất thừa kế theo luật. - Người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản: Trường hợp khi có người thừa kế theo pháp luật chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nhưng người này có con hoặc cháu được thừa kế thế vị theo Điều 677 thì theo chúng tôi, người này vẫn được coi là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. - Còn nếu người thừa kế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nhưng người này không có con hoặc cháu được thừa kế thế vị, trong trường hợp này, nếu di sản được chia theo pháp luật, pháp luật cũng không chia di sản cho những người này, bởi vậy họ sẽ không được coi là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. - Xác định tại Điều 669 hưởng đủ theo phần di sản đã được tính cũng còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng nếu di sản chưa chia thì trước khi chia di sản, trích từ di sản thừa kế cho mỗi người được hưởng theo Điều 669 một phần di sản bằng phần di sản dã được xác định từ công thức trên nếu họ không được người để lại di sản cho hưởng hoặc cho hưởng nhưng không bằng phần di sản đó. Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế được nhận di sản phải trích lại một phần sao cho đủ so với kỉ phần mà người thừa kế theo Điều 669 được hưởng, trong đó phần phải trích lại từ mỗi người thừa kế tương ứng với phần di sản mà họ đã nhận. Quan điểm này có nhiều bất cập vì không phù hợp với nguyên tắc quyền định đoạt của người lập di chúc, không đảm bảo được quyền hưởng di sản cảu những người thừa kế theo luật khác. Quan điểm khác cho rằng phần di sản mà người thừa kế theo Điều 669 được hưởng chỉ trích từ phần di sản mà người thừa kế được hưởng theo di chúc và tương ứng với phần vượt trội so với suất thừa kế theo luật mà họ được hưởng. Ví dụ ông N để lại một khối di sản có giá trị 90.000.000 đồng có ba người thừa kế theo pháp luật là vợ ông – bà B cùng hai con K và H . Ông chết có để lại di chúc cho K hưởng 2/3 di sản. Theo quan điểm trên thì chia như sau: Theo di chúc thì K được hưởng 90.000.000 đồng x 2/3 = 60.000.000 đồng đồng. Phần di sản còn lại được chia cho B và H , mỗi người được hưởng (90.000.000 đồng – 60.000.000 đồng) : 2 = 15.000.000 đồng. 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật là 90.000.000 đồng : 3 x 2/3= 20.000.000đồng. Như vậy B mới được hưởng 15.000.000 đồng so với phần mà Điều 669 đã định thì còn thiếu 5.000.000 đồng. Nếu không được A cho hưởng theo di chúc và di sản được chia theo luật thì K chỉ được 30.000.000 đồng nhưng theo di chúc thì K được 60.000.000 đồng. Vì vậy 5.000.000 đồng còn thiếu trong kỉ phần luật định của bà B chỉ trích từ phần di sản mà K được hưởng (H không phải trích vì phần này chưa bằng 1 suất thừa kế theo luật). Quan điêm này hợp lý hơn vì đã thể hiện được việc pháp luật chỉ hạn chế quyền tụ định đoạt của người lập di chúc nếu sự định đoạt đó vượt quá giới hạn cho phép và ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của những người thừa kế mà pháp luật bảo hộ. Điều 669 BLDS đã quy định rõ ràng về các đối tượng được hưởng “kỉ phần bắt buộc”. Nhưng điều luật này lại không quy định rõ các trường hợp có thể xác định “ hai phần ba của một người thừa kế theo pháp luật” dẫn đến việc hiểu luật không thống nhất. Việc áp dụng “kỉ phần bắt buộc” sẽ chính xác và chính xác khi những người thừa kế theo luật không bị truất quyền hưởng di sản; không từ chối nhận di sản; không bị tước quyền hưởng di sản; và không chết trước người để lại di sản khi người chết trước người để lại di sản có con hoặc cháu hưởng thừa kế thế vị (Điều 677 BLDS) Nhưng việc xác định di sản thừa kế khi có những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo Điều 669 BLDS bị truất quyền hưởng di sản; người từ chối quyền hưởng di sản... còn nhiều lúng túng, vướng mắc bởi còn nhiều cách hiểu khác nhau trong việc xem xét những ai được tính vào "nhân suất" để xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Mỗi cách hiểu đều có những lý do riêng cần phải được nghiên cứu. Xét hai cách hiểu sau: + Cách hiểu thứ nhất: Người thừa kế từ chối quyền hưởng di sản thì không được coi là nhân suất để xác định xuất của một người thừa kế theo pháp luật. Chỉ có người thừa kế theo Điều 669 BLDS bị người để lại di chúc truất quyền hưởng di sản được tính là nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Những người hiểu theo cách này cho rằng các đối tượng nêu trên không được coi là người thừa kế theo pháp luật, không được coi là nhân suất. + Cách hiểu thứ hai: Những đối tượng kể trên mặc dù bị truất, bị tước, từ chối quyền hưởng di sản nhưng vẫn là một nhân suất khi xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Theo tôi cách hiểu thứ hai hợp lý hơn, bởi những lý do sau: - Thứ nhất: Quy định tại Điều 669 BLDS là để hạn chế quyền định đoạt di sản của người để lại di sản khi họ không làm tròn "bổn phận" của mình đối với những người thân thích, chứ không phải tước bỏ hoặc phủ nhận hoàn toàn quyền định đoạt của người để lại di sản. - Thứ hai: Nên hiểu di sản cho người thừa kề không phụ thuoocjvafo nội dung của di chúc luôn ít hơn suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không thể bằng hoặc lớn hơn mới đúng với tinh thần của điều luật: "..vẫn được hưởng phần di sản... - Thứ ba: Nhà làm luật đã dự liệu: "...nếu chia theo pháp luật..." Vậy cần hiểu quy định này của điều luật là đưa ra giả thiết nếu chia theo pháp luật trong trường hợp bình thường thì một suất là bao nhiều để từ đó xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật cho người nào hưởng theo. - Thứ tư: Nếu không lấy toàn bộ di sản chia cho tất cả những người thừa kế theo luật để xác định 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì sẽ dẫn đến phần di sản có thể ít hơn, bằng hay thậm chí lớn hơn một suất của người thừa kế theo pháp luật trong trường hợp bình thường. - Thứ năm: Những người bị truất, bị tước, từ chối nhận di sản (người thừa kế theo pháp luật) được coi là nhân suất để xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật mới đảm bảo tính hợp lý và thống nhất trong mọi cách chia khi lấy toàn bộ di sản để chia. Theo Điều 669 BLDS trường hợp phải xác định di sản thừa kế khi có người thừa kế theo luật chết trước người để lại di sản nhưng người này có con hưởng thế vị theo Điều 677 BLDS thì được coi là nhân suất để xác định suất của một người thừa kế theo pháp luật. Vì khi chia di sản thừa kế theo pháp luật, mặc dù người thừa kế ko còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng để bảo vệ quyền lợi cho người hưởng thế vị thì pháp luật quy định phải chia cho họ (như còn sống) để con họ được hưởng thế vị. 4. Mối liên hệ giữa người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và người thừa kế theo di chúc. Phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là một phần di sản nằm trong khối tài sản của người chết để lại. Vì vậy, cũng giống như di sản thừa kế theo di chúc ta chỉ có thể xác định phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sau khi đã thanh toán các nghĩa vụ về tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 683 BLDS gồm: chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng còn thiếu; tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ; tiền công lao động; tiền bồi thường thiệt hại; thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước; tiền phạt; các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác; chi phí cho việc bảo quản di sản; các chi phí khác… Nếu nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế lớn hơn hoặc bằng tổng giá trị di sản thừa kế của người chết để lại thì sẽ không còn di sản để chia thừa kế cũng như di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế nhỏ hơn so với tổng giá trị di sản chia thừa kế, chúng ta xem xét các trường hợp sau: Thứ nhất: Giả định không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực - Nếu không có di chúc hoặc di chúc không có hiệu lực toàn bộ, toàn bộ di sản được chia theo pháp luật, không còn di sản thừa kế theo di chúc, do đó vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc cũng không được đặt ra. Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ được nhận phần di sản của mình với tư cách là người thừa kế theo pháp luật. - Nếu di chúc không có hiệu lực một phần, di sản thừa kế theo di chúc sẽ bị giảm do phần di sản không có hiệu lực sẽ bị chia theo pháp luật. Phần di sản thừa kế theo di chúc có thể tiếp tục bị giảm nếu người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vẫn chưa nhận đủ phần của mình (bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật). Ví dụ: Ông X có 3 người thừa kế theo pháp luật là bà A - vợ ông X và hai người con đã thành niên và có khả năng lao động là B và C. Trước khi chết, ông X lập di chúc định đoạt khối di sản trị giá 180.000.000 đồng của mình; trong đó ông cho bà A được hưởng 10.000.000 đồng, B và C mỗi người được hưởng 55.000.000 đồng, còn 60.000.000 đồng ông cho E hưởng với điều kiện E phải gây thương tích nặng cho F (là một người mà ông X rất ghét khi còn sống). Để xác định phần di sản thừa kế theo di chúc có bị cắt giảm hay không, trước hết phải xác định phần thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà bà A được hưởng. Ông X có 3 người thừa kế theo pháp luật, do đó một suất thừa kế theo pháp luật là: 180.000.000 đồng: 3 = 60.000.000 đồng. Bà A được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật: 60.000.000 x 2/3 = 40.000.000 đồng. Việc ông X định đoạt 60.000.000 đồng cho E hưởng là bất hợp pháp. Vì vậy, phần di chúc liên quan đến phần 60.000.000 đồng đó là không có hiệu lực và sẽ bị chia theo pháp luật cho bà A, và hai con là B và C, mỗi người được hưởng: 60.000.000 đồng : 3 = 20.000.000 đồng. Tổng số phần di sản mà bà A được hưởng theo di chúc và theo pháp luật là: 10.000.000 đồng + 20.000.000 đồng = 30.000.000 đồng. Còn thiếu 10.000.000 đồng nữa mới đủ 40.000.000 đồng (2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật). Phần 10.000.000 đồng này sẽ phải được lấy từ phần di sản thừa kế theo di chúc của B và C. Di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc: 40.000.000 đồng. Di sản thừa kế theo di chúc bằng: 180.000.000 đồng – 60.000.000 đồng (phần di sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực) – 40.000.000 đồng (phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc) = 80.000.000 đồng. Từ ví dụ trên, chúng ta có thể thấy sự chuyển hóa từ di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật thành di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (10.000.000 đồng thừa kế theo di chúc của bà A và 10.000.000 đồng thừa kế theo di chúc bị cắt giảm của B và C và phần 20.000.000 đồng chia theo pháp luật). Nói cách khác, phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc của bà A được cấu thành từ phần di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật, nhưng bà A nhận phần di sản này không phải với tư cách người thừa kế theo di chúc hay người thừa kế theo pháp luật mà lại là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Đây là điểm rất khác biệt của di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc với di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật. Đối với di sản thừa kế theo di chúc và di sản thừa kế theo pháp luật, việc nhận một trong hai phần di sản này không làm triệt tiêu quyền của người thừa kế trong việc nhận phần di sản kia. Nói cách khác, một người thừa kế có thể mang cùng một lúc hai tư cách – vừa có thể là người thừa kế theo di chúc, vừa có thể là người thừa kế theo pháp luật. Nhưng sẽ không thể xảy ra trường hợp một người vừa là người thừa kế theo di chúc vừa là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hoặc vừa là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vừa là người thừa kế theo pháp luật trừ khi cùng một lúc họ được nhận di sản thừa kế từ nhiều chủ thể độc lập mà đối với chủ thể này họ là người thừa kế theo di chúc, đối với chủ thể kia họ lại là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Thứ hai: giả định di chúc được lập hoàn toàn hợp pháp và có hiệu lực toàn bộ Trường hợp 1: người lập di chúc định đoạt toàn bộ di sản trong di chúc - Nếu người lập di chúc cho những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hưởng một phần di sản lớn hơn hoặc bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Lúc này, quyền lợi tối thiểu của những người thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc đã được bảo đảm. Do đó, không phát sinh vấn đề thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Phần di sản thừa kế theo di chúc được giữ nguyên theo đúng sự định đoạt của người lập di chúc. - Nếu người lập di chúc không cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc hưởng di sản, hoặc tuy có cho nhưng cho hưởng ít hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. Trong trường hợp này, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc sẽ vẫn được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật (được tính bằng cách giả định toàn bộ di sản được chia theo pháp luật). Di sản thừa kế theo di chúc là phần di sản còn lại sau khi đã lấy tổng giá trị di sản thừa kế trừ đi tổng số di sản mà những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng. Trường hợp 2: Người lập di chúc chỉ định đoạt một phần di sản trong di chúc. Lúc này, di sản thừa kế được chia thành hai phần: một phần di chuyển theo di chúc và phần còn lại theo pháp luật. Để xác định có hay không phần di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc ta phải tiến hành cộng phần di sản mà những người thuộc diện thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng theo di chúc với phần di sản được hưởng theo pháp luật. Nếu kết quả bằng hoặc lớn hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, di sản thừa kế theo di chúc được giữ nguyên theo đúng sự định đoạt của người lập di chúc; nếu kết quả ấy nhỏ hơn 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật thì di sản thừa kế theo di chúc là phần di sản còn lại sau khi đã trừ đi phần còn thiếu trong phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được hưởng. Từ những điều vừa trình bày trên đây, cho phép chúng ra rút ra nhận xét: trong mối liên hệ với di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, di sản chia thừa kế có thể sẽ là một thành phần cấu tạo nên phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Nếu người lập di chúc càng hạn chế phần di sản được hưởng của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong di chúc thì phần di sản thừa kế theo di chúc bị cắt giảm cho đủ 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật sẽ càng lớn. Một người sẽ không thể đồng thời vừa nhận phần di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vừa nhận phần di sản thừa kế theo di chúc. Họ chỉ có thể là một trong hai: hoặc là người thừa kế theo di chúc hoặc là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc – nếu như phần di sản họ nhận được chưa đủ 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật. II. Những cơ sở thực tiễn của quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. 1. Thực trạng và diễn biến tình hình giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong những năm gần đây. Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên về thực tiễn, do sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn chưa thể trù liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Còn một số quy định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết, chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể. Vì vậy, còn nhiều quan điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế sẽ xảy ra tình trạng không nhất quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền thì vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp. Hàng năm Toà án nhân dân các cấp đã thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ án thừa kế. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Có những bản án quyết định của toà án vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Sở dĩ còn tồn tại những bất cập đó là do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến là do các quy định của PLVTK chưa đồng bộ, cụ thể... Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều văn kiện của Đảng như Nghị quyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới... đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó có pháp luật về thừa kế. 2. Nguyên nhân của tình trạng này. Thừa kế là chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Khi xã hội càng phát triển, các mối quan hệ kính tế và xã hội cũng phát triển đa dạng, nhiều vấn đề thừa kế nếu như trước đây được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, phong tục tập quán thì nay đã chịu sự điều

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNgười thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.doc