Tiểu luận Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở Việt Nam

Mục Lục

Phần mở đầu 5

1.Lý do chọn đề tài 5

2.Tình hình nghiên cứu 6

3.Nhiệm vụ mục đích của đề tài nghiên cứu 6

4.Đóng góp của đề tài 7

5.Phương pháp nghiên cứu 7

6.Phạm vi của đề tài 7

7.Kết cấu của báo cáo khoa học 7

 

Chương I: Cơ Sở Lý Luận 8

I- Một số khái niệm liên quan 8

1.Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là gì? 8

2.Hình phạt tử hình là gì? 8

3.Tại sao lại áp dụng hình phạt tử hình 9

II- Mối tương quan giữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và

vấn đề áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam 9

 

Chương II: Nguyên Tắc Nhân Đạo Trong Luật Hình Sự Và

Vấn Đề Áp Dụng Án Tử Hình Ở Việt Nam 10

I-Đặc điểm, mục đích của nguyên tắc nhân đạo và

hình phạt tử hình trong luật hình sự 10

1.Đặc điểm của nguyên tắc nhân đạo 10

2.Đặc điểm của hình phạt tử hình 11

3.Mục đích của nguyên tắc nhân đạo và áp dụng

hình phạt tử hình trong luật hình sự 12

II- Vài nét về hướng phát triển và thực trạng áp

dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay 13

1.Xu hướng phát triển của hình phạt tử hình 14

2.Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt

Nam hiện nay 15

3.Nguyên nhân và yêu cầu thiết thực cho vấn đề hạn

chế việc áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam 16

III- Phương pháp thay đổi việc áp dụng hình

phạt tử hình trong luật hình sự 19

1. Vấn đề giải pháp trong thực tiễn khi hạn chế

và tiến tới xóa bỏ việc áp dụng hình phạt tử hình 19

2.Những đề xuất sửa đổi văn bản luật và việc áp

dụng hình phạt tử hình trong những năm tới 21

2.1Trong thời gian trước mắt 21

2.2 Sau một thời gian hạn chế việc áp dụng hình

phạt tử hình chúng ta sẽ tiến tới việc loại xóa bỏ toàn

bộ hình phạt tử hình trong giai đoạn từ năm 2010-2015 21

Kết luận 24

Danh mục tài liệu tham khảo 25

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 18846 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo,công bằng xã hội khó được khôi phục.”-ý kiến của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng. Nhưng đó là lý do của cách đây nửa thập niên, còn hiện nay trong giai đoạn Việt Nam từng bước khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế, khi mà chúng ta hòa nhập vào sân chơi chung của nhân loại, lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội đang được vận hành, kéo theo đó là xu hướng phát triển tuyệt đối quyền con người thì sự xậm phạm tình mạng người khác dù bằng hình thức nào phải chăng đều không còn hợp lý? Cho nên việc cắt giảm dần và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam cần được xem xét và cân nhắc kỹ lưỡng, để làm sao chúng ta có một Nhà nước thật dân chủ, một nền pháp luật thật sự nhân đạo II. Mối tương quan giữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự với vấn đề áp dụng hình phạt tử hình. Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam thấm nhuần tư tưởng vì con người, đặt lợi ích của con người lên hàng đầu.Việc tồn tại hình phạt tử hình trong khung hình phạt của luật hình sự nhìn chung không tại ra mâu thuẫn.Bởi lẽ,sự hiện diện của án tử hình là do những nguyên nhân khách quan,do điều kiện kinh tế xã hội quy định, hơn nữa pháp luật hình sự cũng quy định nhiều hạn chế cho việc áp dụng hình phạt tử hình: Điều 35: “ …Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển sang tù chung thân Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.” Xét ở một khía cạnh khác do ảnh hưởng của nguyên tắc nhân đạo,cùng với sự phát triển của xã hội loài người mà việc quy định và áp dụng hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có xu hướng giảm dần và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn.Như vậy,nguyên tắc nhân đạo có tác dụng thúc đẩy quá trình tiêu giảm hóa án tử hình trong luật hình sự. Tuy nhiên,Việc luật hình sự Việt Nam vẫn còn tồn tại hình phạt tử hình cho nhiều cấu thành tội phạm, kể cả tội phạm kinh tế, đã khiến cho nguyên tắc nhân đạo không còn trọn vẹn.Thiết nghĩ để thiết thực tiến lên chủ nghĩa xã hội với tinh thần nhất quán vì con người và đảm bảo nguyên tắc nhân đạo pháp luật hình sự Việt Nam cần tiến tới loại trừ án tử hình. Chương II : NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG LUẬT HÌNH SỰ VÀ VẤN ĐỀ ÁP DỤNG ÁN TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM I-Đặc điểm, mục đích của nguyên tắc nhân đạo và hình phạt tử hình trong luật hình sự. II- Đặc điểm của nguyên tắc nhân đạo. Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt nam là một trong những nguyên tắc quan trọng hàng đầu được quy định phổ biến trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.Về cơ bản nó có những đặc điểm sau. a) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội cũng như truyền thống nhân đạo của dân tộc ta. Tư tưởng nhân đạo thể hiện ngay trong mục đích của hoạt động thi hành án hình sự là nhằm thực thi công lý, bảo đảm sự công bằng cần thiết cho mọi thành viên trong xã hội trước pháp luật, bảo vệ có hiệu quả các loại lợi ích trong xã hội. Nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi trước hết, hoạt động thi hành án hình sự phải phải bảo đảm bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các lợi ích khác nhau, tôn trọng nhân phẩm danh dự của cá nhân b) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự biểu hiện cụ thể ở việc nghiêm cấm các hành vi đày đọa, hành hạ về thân thể, các hành vi xâm phạm nhân phẩm danh dự đối với những người chấp hành án hình sự. Theo đó các biện pháp tư pháp và chế định pháp lý hình sự khác được áp dụng đối với người phạm tội không nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác và hạ thấp nhân phẩm con người.Nếu trong việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự mà thiếu dù một trong năm đặc điểm của tội phạm- thiếu một trong năm điều kiện của trách nhiệm hình sự thì tương ứng như vậy, hành vi ấy không phải là tội phạm- người thực hiện hành vi ấy không phải là chủ thể của tội phạm và do đó trách nhiệm hình sự bị loại trừ. c)Nguyên tắc nhân đạo cũng thể hiện ở quy chế giảm, miễn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù. Người có năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế, người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc đang trong thời gian nuôi con nhỏ, người già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được giảm, miễn một phần trách nhiệm hình sự.Nhà nước cũng luôn có chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội ra tự thú hay có sự hối cải, chính sách ân xá ,đại xá, đặc xá cho người đang chấp hành hình phạt. 2- Đặc điểm của hình phạt tử hình. a)Tử hình là loại hình phạt đặc biệt, hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của quốc gia. Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì hình phạt tử hình là hình phạt cuối cùng thể hiện sự nghiêm khắc nhất của pháp luật đối với người phạm tội. Người bị áp dụng hình phạt tử hình cũng đồng nghĩa với việc sẽ không còn có cơ hội tồn tại để sống, họ đã bị tước đi thứ quyền thiêng nhất – quyền được sống. Xét một cách chính xác hay đơn giản thì cũng không có một hình phạt nào nghiêm khắc hơn hình phạt tử hình, sự tàn khốc và triệt tiêu khả năng tồn tại của con người khiến cho hình phạt tử hình trở thành khung hình phạt ít được áp dụng.Và cũng vì tính chất này mà nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam khi quy định trong luật hình sự luôn có xu hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình( Hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử…luật hình sự năm 1999 đã loại bỏ 13 cấu thành tội phạm trên tổng số 40 cấu thành tội phạm có quy định về hình phạt tử hình mà trước luật hình sự năm 1985 đã quy định.) b) Tử hình là hình phạt tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm nhưng cũng đồng nghĩa với việc không thể khắc phuc hậu quả của người phạm tội. Tử hình tước đi quyền sống của người phạm tội tước đi mọi giao tiếp, mọi mối quan hệ xã hội của người phạm tội.Người phạm tội khi bị áp dụng hình phạt tử hình sẽ vĩnh viễn không còn tồn tại trong xã hội loài người.Vì thế sẽ không bao giờ có cơ hội cho họ tiếp tục tái phạm, ăn năn hối lỗi hoặc có thế sống mà khắc phục hậu quả nặng nề do hành vi phạm tội của mình gây ra. Sâu xa hơn khi một người bị kết án tử hình, nhất là người vốn có địa vi quan trọng trong xã hội sẽ gây ra những xáo trộn trong quan hệ với cộng đồng,quan hệ với vợ hoặc chồng, với con cái,ảnh hưởng đến tính nhân đạo của nhà nước và tính nhân văn mềm dẻo của pháp luật. c) Hình phạt tử hình có tính không thể thay đổi và không hàm chứa nội dung cải tạo giáo dục người phạm tội. Khi áp dụng hình phạt tử hình với người phạm tội cơ quan có thẩm quyền đều lí luận rằng hành vi của người phạm tội thể hiện rõ là họ là những đối tượng không thể cải tạo, không thể giáo dục và vì thế họ sẽ phải chết.Khi quyền sống của họ đã bị tước đi, họ không bao giờ còn tồn tại trên đời để có thể cải tạo giáo dục. Xuất phát từ điểm này chúng ta có thể thấy hình phạt tử hình luôn có tính chất không thể thay đổi. Bởi nếu như những tội phạm khác, giả sử người phạm tội đang thụ lý trong tù mà chứng minh được rằng họ bị oan thì họ sẽ được thả tự do và có quyền yêu cầu cơ quan liên quan bồi thường thiệt hại oan sai.Nhưng ở người bị kết án tử hình đã được áp dụng thì dù sau đó có chứng minh được người đó chết hoàn toàn vô tội thì cũng không làm cách nào cho họ có thể sống lại để tiếp tục cuộc sống mà họ đáng được có.Vì thế, không thể thay đổi là một đặc tính rất cơ bản của hình phạt tử hình. 3.Mục đích của nguyên tắc nhân đạo và áp dụng hình phạt tử hình trong luật hình sự. Mục đích của quy định nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là nhằm đảm bảo cho con người những lợi ích tối thiểu,đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về danh dự nhân phẩm và tính mạng.Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con nguời của nhà nước Cộng hòa xã hội Việt Nam,quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Trong khi đó theo điều 27 của Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì mục đích của hình phạt là: “ hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.” Mục đích tối thượng và quan trọng nhất của hình phạt tử hình trong điều kiện hoàn cảnh hiện nay là nhằm đạt đến sự công bằng trong xã hội dân chủ và ngăn ngừa hành vi tương tự có thể xảy ra.Hình phạt tử hình là sự trừng trị kẻ phạm tội nhằm mục đích răn đe trước hết là người phạm tội và sau đó là các tội phạm khác. Như vậy về mặt bản chất việc tồn tại hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam hiện nay không tạo ra mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo nhưng nói gì thì nói nó cũng phần nào làm giảm đi tính tích cực và toàn diện trong chính sách nhận đạo của đảng và nhà nước ta.Nhất là trong thời gian gần đây khi khẩu hiệu lý thuyết phải luôn đi đôi với hành động được đề cao thi việc từng bước giảm dần án tử hình sẽ là việc làm thiết thực và đầy ý nghĩa. (1)-(2)-(3) Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến xu thế thu hẹp việc áp dụng hình phạt tử hình. Hai phạm trù khái niệm này bề ngoài có vẻ đối trọng nhau nhưng thực chất lại không hề có sự mâu thuẫn lẫn nhau mà trái lại nguyên tắc nhận đạo luôn làm tiền đề, định hướng chi phối đến việc áp dụng hình phạt tử hình, khiến cho việc áp dụng nó trở nên bị hạn chế.Trong thời đại mới cần tiếp tục vận dụng những lý luận trong nguyên tắc nhân đạo nhằm bảo vệ cho các quyền con người trong đó có quyền sống mà có thể bị việc áp dụng hình phạt tử hình cướp đi.Tuy nhiên về một khía cạnh nào đó việc áp dụng hình phạt tử hình hiện nay ở Việt Nam phần nào đã làm giảm đi giá trị của nguyên tắc nhân đạo, hạn chế tính toàn diện của một nguyên tắc tối thượng trong pháp luật. II- Vài nét về hướng phát triển và thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay. 1.Xu hướng phát triển của hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời gắn với sự ra đời của giai cấp, Nhà nước và pháp luật.Hình phạt tử hình luôn là công cụ hữu hiệu để giai cấp thống trị duy trì chế độ chính trị và nhà nước của mình. Do truyền thống văn hóa khác nhau,sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà việc áp dụng hình phạt tử hình có sự khác nhau giữa các quốc gia,có những quốc gia không áp dụng ( và xin thưa con số này lên tới quá nửa các quốc gia lớn nhỏ trên thế giới.) Mặc dù hình phạt tử hình vẫn còn được áp dụng ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, nhiều quốc gia được coi là lớn mạnh có nền văn minh phát triển cũng còn tồn tại hình phạt tử hình như Mỹ và Nhật bản…Tuy nhiên điều đó không nói lên được rằng các quốc gia phát triển muốn lớn mạnh và trở thành cường quốc kinh tế thì đều phải áp dụng hình phạt tử hình.Xu hướng quốc tế cho thấy bản đồ hình phạt tử hình đang thu hẹp lại. Theo thống kê, hiện nay trên thế giới có 89 quốc gia và vùng lãnh thổ bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các tội phạm;10 quốc gia bãi bỏ hình phạt này đối với mọi tội danh trừ những tội danh đăc biệt như tội khủng bố, tội ác chống lại loài người; 28 quốc gia chưa xử tử người nào trong vòng 10 năm qua và có khoảng 70 quốc gia còn áp dụng hình phạt tử hình. Mặc dù đó là những con số thống kê chưa chính xác và đầy đủ nhưng nhìn chung hiện nay phần lớn các quốc gia đang có xu hướng giảm dần tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình.Tại các quốc gia liên minh châu Âu và châu Mỹ-la-tinh hình phạt tử hình hầu hết không còn được áp dụng với mọi loại tội phạm, cộng hòa pháp gần như là nước cuối cùng thuộc liên minh châu Âu bãi bỏ hoàn toàn việc áp dụng hình phạt này.Ngay cả Nhật Bản trước xu hướng của thời đại cũng chỉ còn 13 tội phải chịu hình phạt tử hình mà trong đó chủ yếu là các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tính mạng con người.Tại Mỹ hiện có hơn 30 bang trên tổng số 50 bang vẫn đang áp dụng hình phạt tử hình nhưng trên thực tế chỉ có 25 bang còn áp dụng hình phạt tử hình, bởi một số bang trong luật hình sự vẫn quy định hình phạt mà không hề áp dụng. Ngay trong khu vực Đông Nam Á, gần đây nhất quốc gia Philippines đã bãi bỏ việc áp dụng hình phạt tử hình…một số nước khác cũng áp dụng rất ít là Sinhgapo và Malaysia. Xu hướng thay hình phạt tử hình bằng những hình phạt khác nhẹ hơn và xu hướng tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình của thế giới đang diễn ra với phạm vi rộng và tốc độ nhanh. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, nước láng riềng Việt Nam, còn hùm sư tử của châu Á, một cường quốc đông dân nhất thế giới có tiềm lực kinh tế cực mạnh- Trung Quốc-vẫn đang tồn tại 66 tội có khung hình phạt tử hình.Trung quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa nên Việt Nam có nhiều kinh nghiệm họ tập.Nhưng đó là một suy nghĩ nhầm lẫn và máy móc.Chúng ta không thể dập khuôn những chính sách pháp luật của Trung Quốc vào trong điều kiện hoàn cảnh của nước ta.Hơn nữa,hiện nay Trung Quốc đang nhận được rất nhiều chỉ trích từ phía dư luận quốc tê về quyền con người cũng như phản đối từ các thế lực tự do dân chủ tiến khác. 2.Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay. Hiện nay trong Bộ luật hình sự 1999 của nước ta các tội có thể áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình đã giảm đi nhiều so với bộ luật hình sự năm 1985:Tại chương XI, quy định về tội xâm phạm an ninh quốc gia, chỉ còn bảy tội trong số mười ba tội, đó là các tội phản bội tổ quốc( khoản 1 Điều 78 Bộ luật hình sự(BLHS)), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (khoản 1 Điều 79 BLHS ), tội gián điệp (khoản 1 Điều 80 BLHS), Tội bạo loạn( khoản 1 Điều 82 BLHS), tội hoạt động phỉ ( Khoản 1 Điều 83 BLHS), tội khủng bố (khoản 1 Điều 84 BLHS ), tội phá hoại cơ sở vật chất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam ( khoản 1 Điều 85 BLHS);Tại chương XVI quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có ba trong số hai mươi chín tội có thể nhận mức án tử hình, đó là các tội,buôn lậu (Điều 153 BLHS), tội sản xuất buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm,thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh( Điều 157 BLHS), tội làm, tàng chữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180 BLHS); Tại chương XVIII quy định về các tội phạm về ma túy có ba trong số mười tội: tội sản xuất trái phép chất ma túy( khoản 4 Điều 193 BLHS), tội tàng chữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (khoản 4 Điều 194 BLHS),tội tổ chức, sử dụng trái phép chất ma túy (khoản 4 Điều 197 BLHS);Tại chương XIX quy định về các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng có tới năm mươi lăm tội nhưng chỉ có hai tội có mức án tử hình,đó là tội chiếm đoạt tàu bay tàu thủy(Điều 221 BLHS) và tộiphá hủy công trình,phuơng tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231 BLHS).Tại chương XXI quy định về các tội phạm về chức vụ có ba tội trong mười bốn tội: tội tham ô tài sản( khoản 4 Điều 278 BLHS), tội nhận hối lộ( khoản 4 Điều 279 BLHS ), tội đưa hối lộ ( khoản 4 Điều 289 BLHS);ba trong số hai mươi sáu tội thuộc chương XXIII quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm quân nhân gồm có: tội chống mệnh lệnh (Điều 316 BLHS), tội đầu hàng địch (khoản 3 Điều 322 BLHS ), tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện lỹ thuật quân sự( khoản 4 Điều 334 BLHS) và cuối cùng là ba trong số bốn tội thuộc chương XXIV quy định về các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh:tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược ( Điều 341 BLHS), tội chống loài người ( Điều 342 BLHS ) và các tội phạm chiến tranh ( Điều 343 BLHS). Đó là những quy định về các tội có thể áp dụng hình phạt tử hình.Vậy trên thực tế hiện thực thi hành án tử hình như thế nào? Trong những năm qua cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, đất nước từng ngày đi lên rõ rệt.Thì tình hình phạm tội cũng diễn ra khá phức tạp,số vụ án nghiêm trọng liên tiếp xảy ra, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.Tương ứng với nó là số người bị kết án, trong đó không ít là án tử hình, gây đau lòng thương tâm cho gia đình nạn nhân( kể cả người phạm tội) cũng như dư luận xã hội. Theo thống kê của Bộ công an năm 2005 thì số người bị thi hành án tử hình ở Việt Nam là: Năm 1999 - 111 người Năm 2002 - 102 người Năm 2000 - 77 người Năm 2003 -170 người Năm 2001 - 152 người Năm 2004 -136 người Năm 2005 -131 người Nhìn vào số liệu thống kê có thể thấy rằng số người bị áp dụng án tử hình không hề giảm.Hay nói cách khác với tỷ lệ áp dụng khá cao như vậy việc thực hiện tội phạm trên thực tế không hề giảm? Và phải chăng áp việc áp dụng hình phạt tử hình đã không đem lại hiệu quả như mong muốn, không răn đe và ngăn cản được việc thực hiện các tội đặc biệt nghiêm trọng? Trái lại nó còn làm ảnh hưởng đến tính nhân đạo trong pháp luật, xâm hại vào nguyên tắc tôn trọng quyền con người cũng như tư tưởng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. 3.Nguyên nhân và yêu cầu thiết thực cho vấn đề hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam. V.I. Lênin đã từng nói: “ tác dụng của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt phải nặng hay nhẹ mà là ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng phải chịu hình phạt.” Rõ ràng vấn đề công bằng đã thể hiện rất rõ trong luận điểm này của Lênin.Việc ngăn ngừa các hành vi tội phạm tương tự có thể xảy ra bằng cách áp dụng án tử hình đối với người phạm tội chưa hẳn đã đem lại hiểu quả mong muốn.Bởi kẻ đáng được răn đe để không tái phạm nữa thì đã được hành quyết, và dĩ nhiên không ai biết được cái cảm giác trừng trị bằng hình phạt tử hình nó ghê gớm thế nào trừ người đã gánh chịu nó.Hậu quả tội phạm vẫn cứ tiếp diễn.Thế nhưng một kẻ tù chung thân đang lãnh án trong trại giam,đang hối cải từng ngay vì những hành vi tội lỗi của mình, đôi khi lại là minh chứng sống cho những ai có ý định vi phạm pháp luật.Cái giá phải trả cho sự phạm tội là bị tước đi quyền tự do, phải chôn mình trong bốn bức tường nhà giam có thể còn nặng hơn cả cái chết.Vậy tại sao phải giết một con người khi chính chúng ta tạo ra pháp luật để chúng ta sinh tồn trong xã hội tốt đẹp hơn. Cần phải nhắc lại mục đích của hình phạt không phải là sự hành hạ và tra tấn con người. mục đích của hình phạt là ngăn cản con người thực hiện hành vi phạm tội, kiềm chế những người khác trong xã hội khỏi việc thực hiện hành vi phạm tội.Tức là mang tính phòng ngừa giáo dục là chủ yếu. Từ những nguyên nhân đó, từ những phân tích trên đây, đã đến lúc cần thay đổi cách nhìn về việc áp dụng hình phạt tử hình.Khi một khuôn mẫu đã trở nên bất hợp lý và kém hiệu quả thì phải thay đổi cho hợp với thời đại.Việc hạn chế và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình đang phù hợp với xu thế chung của nhân loại,phù họp với truyền thống đạo lý của ông cha.Và hơn bao giờ hết nó là hành động tôn trọng nguyên tắc nhân đạo mà chúng ta đặt ra. a) Áp dụng hình phạt tử hình không thể sửa chữa oan sai. Dẫu biết để tiến hành một hình phạt tử hình đối với một người phạm tội phải trải qua một quy trình rất chặt chẽ và phức tạp. Tuy nhiên không ai dám cam đoan rằng những phán quyết của tòa án là luôn luôn đúng.Mà như đã nói ở phần đặc điểm hình phạt tử hình có tính chất là không thay đổi nên người chịu hình phạt tử nếu đã bị đem đi thi hành án thì không bao giờ có cơ hội sửa sai nếu như phải chịu án oan.Một người đã chết đi thì dù sau đó tòa án có minh oan cho ngừời đó và sửa bản án thành vô tội thì anh ta cũng không có cách nào sống lại.Và như vậy thì nảy ra một vấn đề là người không đáng chết lại phải chết, pháp luật lại trở nên phản tác dụng lại cướp mất quyền sống của người dân vô tội.Lúc đó dù Nhà nước có dùng biện pháp gì để bù đắp cho thân nhân gia đình người bị oan thì lòng dân chúng vào cán cân công lý cũng vì đó mà giảm đi phần nào. Trong khi đó nếu chỉ dừng lạị ở hình phạt tù chung thân, Nhà nước sẽ dễ dàng sửa chữa sai lầm, dễ dàng để cho người dân chấp thuận hơn khi biết được khiếm khuyết từ phía người cầm quyền( họ có thể được bồi thường thiệt hại cho thời gian họ phải ở trong tù…và điều quan trọng nhất là họ còn sống để chứng minh sự công bằng của pháp luật.Pháp luật sẽ chẳng bao giờ công bằng nếu như nó vừa giết chết một người sau đó lại nói người đó là vô tội mà không thể nào khôi phục được y nguyên trạng thái ban đầu.Tôi rất tâm đắc một câu nói của một ai đó: hãy biết nhận lỗi trước những sai lầm và sửa chữa những sai lầm ấy.Nhưng đừng bao giờ mắc những sai lầm không thể nào sửa chữa được b)Áp dụng hình phạt tử hình có thể gây thiệt hại lớn về kinh tế cho Nhà nước, không đảm bảo mục đích phòng ngừa. Những năm gần đây chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ việc xét xử, áp dụng và thi hành hình phạt tử hình đối với người phạm tội. Hầu hết là các tội đặc biệt nghiêm trọng liên quan đến hành vi tham ô, hối lộ, buôn bán ma túy, buôn lậu, giết người có thể kể tới các vụ án đình đám nhue Tamexco với Phạm Hùng Phước, Trần Quang Vinh, Vụ án của Vũ Xuân Trường, vụ án Năm Cam và đồng bọn, hay gần đây nhất là vụ công ty Tiếp thị Bộ nông nghiệp của Lã Thị Kim Oanh. Hậu quả là những tử tù này đã phải thi hành án, pháp luật đã tước đi sinh mạng của họ( riêng Lã Thị Kim Oanh chuyển xuống tù chung thân). Những người xem ra là đáng chết đã chết rồi nhưng hậu quả mà người bị án tử hình để lại là hàng trăm tỷ đồng ngân sách nhà nước không cánh mà bay.Chúng ta không có cách nào để thu hồi tài sản mặc dù có biện pháp niêm phong tài sản thi hành án.Việc khắc phục hậu quả trở nên không thể bởi lẽ người duy nhất có thể khắc phục tốt nhất hậu quả trên, là người đầu mối của vụ án, người biết rõ tài sản của họ đang ở đâu và bằng cách nào có thể thu hồi về được tài sản thì đã thi hành án tử hình và chết.Cái chết của họ nhẹ nhàng và chẳng những nó không ngăn ngừa được hậu quả pháp lý trên thực tế mà họ gây ra mà lại đẩy bài toán lãng phí ccủa nhà nước vào lối bế tắc.Giả sử các bị cáo trên không bị tử hình,họ sẽ bị tù chung thân suốt đời thì bản thân họ sẽ càng thấm thía hơn bao giờ hết hành vi phạm pháp luật của mình.Nước mắt chảy xuôi, người Việt Nam vẫn có câu đánh người chạy đi không ai đánh người chạy lại, đã là con người không ai không có điểm yếu cả, những người chịu án tử hình sẽ có lúc họ phải nghĩ về gia đình họ, về con cái họ lúc đó khi bị cáo còn sống dù trong tù họ vẫn có thể hoàn thành nghĩa vụ tài chính và dân sự mà họ đáng phải thi hành. Hơn nữa, sự hiện diện của những người này, sự tồn tại của họ ở trong tù cũng chứng minh cho sự nghiêm minh của pháp luật, điều này có tính giáo dục rất lớn vì như vậy không những chúng ta thỏa mãn mục đích phòng ngừa mà không ai phải chết cả. Sâu xa hơn khi cứu một con người thoát khỏi cái chết là chúng ta đang tôn vinh chúng bản thân chúng ta, một nhà nước mang màu sắc xã hội chủ nghĩa luôn đề cao giá trị nhân đạo không lẽ nào lại tước đi quyền sống tự nhiên vốn có của người dân trong đất nước ấy.Và tôi tin chẳng một quốc gia nào muốn đối đầu với những làn sóng tự do dân chủ, tổ chức nhân quyền đang phát triển rộng khắp trên thế giới. c)Áp dụng hình phạt tử hình tạo dư luận xã hội, làm giảm tính toàn diện trong nguyên tắc nhân đạo.Đặc biệt gây khó khăn cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế đã gây ra những ý kiến tái ngược nhau những tranh cãi trong dư luận.Nhiều vụ án sau khi người phạm tội bị đem đi hành án tử hình đã có nhiều người dân phản đối.Tâm lý của người thân người phạm tội cũng vì đó mà ảnh hưởng.Nhất là những đứa trẻ có cha, hoặc mẹ bị kết án tử hình thử hỏi sau này sẽ hội nhập cuộc sống như thế nào? Chúng sẽ mặc cảm với bạn bè, với xã hội rồi lại dẫn đến xa ngã hư hỏng, tiếp tục bước chân vào vòng phạm tội, như cha mẹ chúng đã từng làm, thậm chí mức độ cong ghê gớm hơn. Nhiều người cũng lo phiên cho những ai phải làm nhiệm vụ “kết liệu một con người” mặc dù hiện nay có rất nhiều biện pháp nghiệp vụ để giúp những người thi hành bớt cảm giác day dứt, tội lỗi khi phai giết một ai đó theo pháp luật nhưng cũng khó tránh khỏi những hội chứng tâm lý, nhất là khi họ về già. Cũng có thể thấy việc áp dụng án tử hình trên thực tế đã làm giảm đi phần nào tính toàn diện và tích cực của nguyên tắc nhân đạo.Nếu đã là nhân đạo thì tại sao lại phải giết người? Đâu phải là cứ ngăn ngừa tội phạm, cứ thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật thì phải áp dụng hình phạt tử hình.Không một bài toàn nào chỉ có một cách giải? chúng ta đang cố tình hay vô tình mà không nhận ra rằng quá nửa các nước trên thế giới đã xóa bỏ hình phạt tử hình mà họ vẫn duy trì được trật tự xã hội mà còn duy trì rất tốt ở nhiều nơi. Lúc này và ngay bây giờ khi trình độ dân trí của loài người đã phát triển đến ngưỡng cửa văn minh thì mọi lời ngụy biện cho việc làm tước đi tính mạng của đồng loại đều không thẻ coi là nhân đạo.Bởi lẽ nếu phân tích theo lối ngôn ngữ hán việt thì nhân là con người, đạo là đạo lý, là nhân cách, là lối sống, lối cư xử.Và phải chăng trong xã hội này việc giết người( dù vì bất cứ mục đích lý

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan