Tiểu luận Nhân cách sinh viên trong thời kỳ hội nhập với khu vực và thế giới

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG 3

PHẦN I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU 3

I Cơ sở lí luận : 3

II. Cơ sở thực tiễn 9

PHẦN II. THỰC TRẠNG 11

I.Khuyết điểm 11

II. Ưu điểm 14

III. Nguyên nhân của những hạn chế 16

PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP 18

KẾT LUẬN 20

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8801 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhân cách sinh viên trong thời kỳ hội nhập với khu vực và thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giới. Con người sống, trước hết phải thoả mãn những nhu cầu về ăn ở, đi lại, các điều kiện sinh hoạt diễn ra hàng ngày và phải đấu tranh để sinh tồn như mọi động vật khác nhưng đó không phải là tất cả những điều làm nên bản chất, nhân cách con người.C ái để phân biệt con người với con vật phải là ý thức, phải là cái xã hội trong mỗi con người . Trước Mác, các nhà triết học cũng đã phân biệt con người với con vật dưới nhiều góc độ có sức thuyết phục , Phranhklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ biết sử dụng công cụ lao động , Arixtot đã gọi con người là một động vật có tính xã hội, Pascal nhấn mạnh đặc điểm và sức mạnh của con người là con người biết suy nghĩ, các quan niệm trên đều đúng nhưng chưa đủ vì chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người chỉ đến khi có quan niệm của Mác, bản chất con người mới được phản ánh đầy đủ và toàn diện, Mác nói “ có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì. Bản thân con người bắt đầu phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình , như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Con người trong quan niệm của chủ nghĩa Mác được nhấn mạnh đến tính xã hội, đến vai trò lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ xã hội”. Có nhiều ý kiến cho rằng xã hội cũng xuất hiện ở các loài vật bởi chúng cũng có cuộc sống bầy đàn tinh vi phức tạp, nhưng cần phải hiểu con vật thì chỉ hành động theo bản năng, theo nhu cầu của riêng chúng, đảm bảo sự sinh tồn cho giống nòi, nó khác xa xã hội con người bởi xã hội con người không chỉ là môi trường tồn tại của từng thành viên, mà hơn thế nữa nó còn được liên tục phát triển bởi tác động của từng cá nhân vào chính nó một cách có ý thức, như Mác nói “ xã hội sản xuất ra con người với tính cách như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội với tính cách như thế ấy”. Có thể nói , chỉ khi tồn tại trong xã hội, con người mới thể hiện bản chất của mình, bởi con người cần đến xã hội ban đầu là do nhu cầu sản xuất vật chất, nhưng trong quá trình sản xuất ấy con người sáng tạo ra đời sống tinh thần, ngôn ngữ, tư duy và nhân cách thông qua giao tiếp với các thành viên khác , nói cách khác con người hình thành bản chất người trong qúa trình giao tiếp với xã hội , nếu không có quá trình này , con người không thể trở thành một con người xã hội. Ngay cả bản chất sinh học của con người cũng không phải tồn tại bên cạnh bản chất xã hội mà hoà vào quyện vào và tồn tại bên trong yếu tố xã hội. Việc ăn ngủ, sinh hoạt hàng ngày của con người không đơn thuần chỉ là những nhu cầu sinh học không hề bị ảnh hưởng, mà trái lại, nó thường xuyên bị tác động từ yếu tố xã hội của con người đó như công việc hay các mối quan hệ. Do vậy có thể nói yếu tố xã hội là thứ chi phối hàng đầu bản chất của một con người. Trước Mác, triết gia duy vật xuất sắc của nền triết học cổ điển Đức Phoiơbăc cũng đã đề cập đến bản chất xã hội của con người tuy vậy con người trong triết học của Phoiơbăc bị tách rời hoàn toàn yếu tố xã hội, là con người chung chung, phi giai cấp , không chỉ ra được quá trình phát triển liên tục của xã hội và con người, đánh mất đi vai trò sang tạo to lớn đối với lịch sử cuả nhân loại. Thấy rõ hạn chế đó, triết học Mác đã đưa con người vào trong chính hiện thực xã hội, vào trong chính thực tiễn cuộc sống, kinh nghiệm của họ để tìm hiểu bản chất của con người, do đó con người trong chủ nghĩa Mác là con người của hiện thực , của lịch sử cụ thể, tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng, lịch sử. Trong bức thư gửi Ăngghen phê phán quan niệm siêu giai cấp của Phoiơbăc về con người, Mác đã viết “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt . Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”. Với câu nói bất hủ này, Mác đã đưa bản chất con người trở lại đúng vị trí lịch sử vốn có của nó, đồng thời khẳng định bản chất con người không phải là tổng số đơn giản các mối quan hệ, mà là “tổng hoà” các mối quan hệ xã hội , điều đó có nghĩa bản chất con người được hình thành từ muôn vàn các mối quan hệ đan xen, phức tạp, do vậy bản chất con người cũng là một phạm trù thực sự phức tạp. v Vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử Khi khẳng định con người với tư cách là một thực thể tự nhiên đặc thù, tồn tại trong mối liên hệ và tác động qua lại khăng khít với các vật thể tự nhiên khác, chủ nghĩa Mác cũng đồng thời khẳng định sức mạnh và khát vọng chinh phục là đặc trưng tích cực về mặt tự nhiên của con người. Ăngghen khẳng định nhờ có lao động mà con người từ vượn có thể tiến hoá được thành người, nhưng có thể chính khát vọng chinh phục thế giới đã đưa con người trở thành chủ thể sáng tạo không ngừng của thế giới. Con người vẫn là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên, lịch sử song quan trọng hơn tất cả, con người lại luôn luôn là chủ thể của chính lịch sử - xã hội, Ăngghen nói “Thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng ta không thể biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người ngày càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”, Lê Nin cũng khẳng định “Lực lượng sản xuất hàng đầu của thế giới là người công nhân, người lao động”. Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội có ý thức, con người lao động tác động vaò thế giới tự nhiên , cải biến thế giới tự nhiên, điều này khác con vật ở chỗ con vật chỉ dựa vào những điều kiện những điều kiện có sẵn của tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để sinh tồn trong khi con người thông qua hoạt động phong phú của mình làm chuyển biến thế giới tự nhiên, sinh động thế gới tự nhiên , bắt tự nhiên phục vụ lợi ích của mình , tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Với một bộ óc thông minh cùng khát khao chinh phục,con người từng bước làm chủ tự nhiên , thông qua đó thúc đẩy xã hội của mình phát triển. Mác nói “ Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người kinh qua lao động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con người”. Trong khi cải tạo tự nhiên phục vụ lợi ích của mình, con người cũng đồng thời làm ra lịch sử của chính mình, chúng ta đều biết mỗi cá nhân đều chịu tác động của xã hội, cuả hoàn cảnh lịch sử, tuy vậy con người không phải là vật bị động đối với những tác động ấy, trái lại từng cá nhân cũng tác động trở lại lịch sử xã hội, lịch sử xã hội là lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tai con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.Tất cả những điều trên thể hiện một cách nhìn mới, cách nhìn biện chứng, khoa học về con người, tạo nên một bước ngoặt mang tính cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng về con người. Quan niệm của chủ nghĩa Mac đã xoá tan một cách triệt để lớp màn huyền ảo , thần bí bấy lâu bao quanh con người, vạch ra bản chất đích thực, đầy sức thuyết phục về con người . b. Nhân cách và vai trò của nó trong đời sống con người Nhân cách là một phần quan trọng trong mỗi cá nhân con người. Nó là bộ mặt tâm lí , tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp. Người ta sinh ra là người nhưng nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động giao tiếp, về thực chất, đó là quá trình xã hội hoá cá nhân, tiếp thụ các giá trị văn hoá của gia đình, cộng đồng, xã hội. Nhân cách có tính chất xã hội , đồng thời cũng mang tính cá biệt, với những kinh nghiệm , nếp suy nghĩ tình cảm, hoài bão, niềm tin, định hướng giá trị, tính cách riêng, tạo ra tính đa dạng của các cá nhân. Nhân cách biểu hiện cái tôi của mỗi cá nhân. Mỗi hành vi của cá nhân đều in dấu ấn của nhân cách, bởi suy nghĩ có ảnh hưởng trực tiếp đến hành động, một nhân cách tốt sẽ có những hành động phù hợp giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng, trái lại một nhân cách xấu sẽ dẫn đến những hành vi đi ngược lại lợi ích và sự phát triển chung. Với vai trò quan trọng như vậy, nhân cách đã rất được các triết gia từ cổ chí kim chú ý. Triết học Mác khẳng định nhân cách không phải do bấm sinh mà có, nó được hình thành và phát triển dựa vào các yếu tố sinh học, tư chất di truyền học, sự tác động qua lại biện chứng của gia đình, nhà trường, xã hội và thế giới quan cá nhân. Nhân cách là thế giới quan bên trong của từng cá nhân, tuy vậy nó cũng mang tính lịch sử bởi thế giới quan của cá nhân cũng bị ảnh hưởng của tính chất thời đại như vị trí lợi ích của cá nhân trong xã hội , khả năng thẩm định đạo đức- nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Một xã hội tiến bộ chỉ có thể được xây dựng bởi những con người có nhân cách tích cực và ngược lại, chỉ khi có một xã hội tiến bộ thì những cá nhân mới có cơ hội bồi dưỡng và phát huy hết nhân cách theo hướng tích cực, nâng cao vai trò chủ thể sáng tạo đối với tự nhiên và xã hội. Do vậy trong sự nghiệp phát triển con người không thể xem nhẹ cả việc phát triển xã hội lẫn giáo dục nhân cách. II. Cơ sở thực tiễn v Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam đối với vấn đề con người và nhân cách con người Trong suốt thời kì đổi mới, Đảng ta đã hết sức coi trọng vấn đề con người và chiến lược con người, đặt con người ở trung tâm của mọi sự phát triển. Đó là tư tưởng tất cả vì con người, tất cả do con người – tư tưởng xuyên suốt thời kỳ đổi mới và là một trong những nhân tố quan trọng làm nên thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới. Không lúc nào quên lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, liên tiếp các kì đại hội từ đại hội VI đến đại hội X, Đảng liên tục đề ra các chủ trương chính sách lớn cho sự nghiệp phát triển con người, không những phục vụ đắc lực cho việc phát triển đất nước mà còn nâng cao tầm vóc của người Việt Nam trong thời đại toàn cầu hiện nay. Tại đại hội VI, Đảng đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược kinh tế xã hội , xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện đại hội lần thứ VII của Đảng có viết: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát triển” . Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”…Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tại đại hội VIII, Đảng ta đã đúc kết và khẳng định “ lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, Khẳng định này được cụ thể hoá thành những quốc sách lớn sao cho phù hợp với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Khi công cuộc đổi mới đang đi vào chiều sâu, phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức to lớn và phức tạp thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ”. Tiếp tục một cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người của thời kỳ đổi mới, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: xã hội ta là xã hội vì con người và coi con người luôn luôn giữ vị trí trung tâm của phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Con người, trước hết là tiềm năng và sức mạnh trí tuệ, tinh thần đạo đức là nhân tố quyết định và là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng CNXH. Chính vì vậy đại hội IX chủ trương: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các chủ trương của Đảng trong suốt thời kì qua đã được hiện thực hoá qua các chính sách cụ thể về y tế, văn hoá , giáo dục …Với những nỗ lực không ngừng, Đảng ta đã tạo ra một bước tiến dài trong quá trình phát triển con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến bộ, dân chủ , toàn diện. PHẦN II. THỰC TRẠNG I.Khuyết điểm Trong quá trình đổi mới , chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể ,tuy vậy khi nhìn thẳng vào thực tế thì vấn đề con người vẫn còn nhiều điều đáng suy nghĩ .So với trình độ phát triển chung của thế giới ,Việt Nam vẫn là một nước đi sau , do vậy trình độ trình độ giáo dục y tế tuy có nhiều tiến bộ song vẫn ở tình trạng lạc hậu .Nền kinh tế thị trường phát triển mới 20 năm nhưng đã chi phối đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư và ảnh hưởng không nhỏ đến tầng lớp sinh viên trí thức .Các nền văn hoá phương Tây du nhập là văn hoá truyền thống bị mời nhạt , các giá trị đạo đức , truyền thống đấu tranh của dân tộc bị lu mờ trước lối sống gấp gáp , vô tâm , thờ ơ ham hưởng thụ từ bên ngoài .Thêm vào đó , tư tưởng đồng tiền đang chi phối cả cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội , vì đồng tiền mà các quan chức nhà nước sẵn sằng tham nhũng của dân , làm xói mòn lòng tin của dân vào Đảng , vì đồng tiền mà các quan hệ thân thiết gần gũi như anh em , vợ chồng, bạn bè…sẵn sàng bị đổ vỡ nhanh chóng.Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam , đến lí tưởng và đạo đức của họ, các chuẩn mực đạo đức dần thay đổi, theo một cuộc điều tra xã hội học, con người Việt Nam từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị -xã hội chung sang coi trọng các giá trị vật chất , từ chỗ lấy con người xã hội tập thể làm mẫu mực chuyển sang chỗ quá nặng nề về con người cá nhân, thậm chí cá nhân chủ nghĩa.Từ chỗ coi đức làm gốc trong quan hệ nhân cách chuyển sang coi nhẹ đạo đức. Điều khiện khách quan đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống thiếu tích cực của sinh viên hiện nay . Một trong những thực tại đáng buồn là phần lớn sinh viên ngày nay không có lí tưởng vững vàng , cao đẹp như thế hệ cha anh , tinh thần cách mạng dần bị lãng quên .Họ chưa ý thức được trách nhiệm xây dựng đất nước của mình để xứng đáng với máu xương mà lớp lớp cha anh đã ngã xuống vì tự do cho dân tộc , tinh thần dân tộc những chỗ cho tư tưởng cá nhân , lí tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đang xây đắp gần như bị bỏ ngỏ , kết quả là sự chảy máu chất xám ra bên ngoài luôn ở tình trạng đáng báo động bởi họ đã chọn nơi tốt hơn để cống hiến , đất nước mất đi “ tài nguyên “ vô giá .Sinh viên ngày nay, họ tự tin với thế hệ đi trước rằng mình là những con người của thời đại mới luôn nhanh nhạy và năng động nhưng khi đứng trước bạn bè quốc tế, họ lại thể hiện “một sự tự ti vĩ đại” họ thiếu niềm tin vào sự trỗi dậy của dân tộc, thậm chí còn có một bộ phận thanh niên sa vào các tệ nạn xã hội , làm thoái hoá nghiêm trọng cả thể chất và tinh thần, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội . Lối sống buông thả , không biết định hướng của sinh viên ngày nay là một điều đáng buồn cho tương lai của đất nước .Theo số liệu từ một cuộc điều tra nhỏ ở ba trường đại học ở TP.HCM : ĐH Khoa học tự nhiên ,ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn ,ĐH Bách khoa , đã cho thấy có 10% sinh viên hướng vào vui chơi , hưởng thụ.Số những sinh viên này hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ , nhiều khi vô bổ , ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách .” Tớ chỉ thích điện thoại nào đời mới ..” ,”Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập…” “Hàng hiệu hợp thời ở chỗ …” Đó là những điều quan tâm thường trực trong đời sống hàng ngày của nhóm sinh viên này .Họ rất năng động , hứng thú với những hoạt động vui chơi , giải trí , hưởng thụ những thú vui của tuổi trẻ , thể hiện một lối sống tiêu dùng “sành điệu “ .Lắm khi “ăn chơi “ kiểu bạt mạng đến quên cả lối về . Bên cạnh lối sống vui chơi hưởng thụ thì có đến 60% sống khép mình , ít tham gia hoạt động xã hội .Những sinh viên này ít tham gia vào các hoạt động xã hội , chính trị , sinh hoạt tập thể .Đây là cách sống thiếu năng động , thiếu tích cực , ít hoà nhập với đời sống xã hội .Trước những sự kiện đang xảy ra xung quanh mình , họ luôn tỏ thái độ bàng quan. Hai lối sống này cũng là hai lối sống khá phổ biển của sinh viên Việt Nam nói chung chứ không chỉ riêng của sinh viên TP.HCM . Nổi trội trong những năm gần đây là lối “sống thử “ .Thực trạng sống thử được coi là biểu hiện đang lo ngại thứ hai trong đời sống văn hoá của sinh viên , chỉ xếp sau “ không chịu học hành , xin điểm , quay cóp “ . Thực tế, hiện nay, SV rất thiếu nơi giao lưu, tâm tình, trong khi lại đang ở độ tuổi phát triển tâm sinh lý, nhu cầu giao lưu tình cảm lớn.Thế là các gốc cây, ghế đá, vườn hoa của trường, của ký túc xá được “tận dụng triệt để” trở thành “Chốn hai người “ rất mất mỹ quan và ảnh hưởng môi trường sư phạm. Vụ việc xảy ra bên hồ Thành Công khi Huyền Trang, SV năm thứ nhất của ĐH Văn hóa Nghệ thuật Quân đội bị đâm chết khi đang ngồi tâm tình với bạn trai là một dẫn chứng đau lòng về hậu quả của việc thiếu những địa điểm lành mạnh cho SV giao lưu, tâm tình. Trong bản kết luận này Nhận thức về tình yêu của SV nói riêng và thanh niên nói chung cũng đã có những thay đổi theo chiều hướng “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc.”Theo một khảo sát của Viện Khoa học xã hội TP.HCM và TW Đoàn TNCS HCM tại 5 trường ĐH tại TP.HCM và 3 trường ĐH tại Hà Nội, chỉ có khoảng 28,9% SV kiên quyết phản đối quan hệ tình dục trước hôn nhân. Số còn lại chấp nhận, coi đó là việc bình thường hoặc đánh giá đó là việc không tốt nhưng cũng không phản đối. Một trong các lý do phổ biến được SV đưa ra để giải thích cho việc “góp gạo thổi cơm chung” là “mỗi người ở một nơi thì tốn kém quá, chi bằng 2 người chung 1 phòng”. Mức sinh hoạt phí và tiền thuê nhà ở các thành phố lớn tương đối cao như hiện nay khiến không ít cặp SV chọn giải pháp “tiết kiệm” như vậy. Trên đây chỉ là một phần trong những khuyết điểm của sinh viên nói chung. Đó là một phần biểu hiện tình trạng yếu kém của sinh viên .Những điều này trở nên đặc biệt nguy hiểm bởi thanh niên , sinh viên chính là những người chủ tương lai của đất nước , quyết định vận mệnh dân tộc , nếu không có một lí tưởng cộng sản vững vàng , một thể chất tinh thần và trí tuệ khoẻ mạnh thì sự nghiệp phát triển đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa khó thành hiện thực II. Ưu điểm Bên cạnh rất nhiều những khuyết điểm của tầng lớp sinh viên , chúng ta cũng cần phải thấy được những ưu điểm của họ , để họ tiếp tục phát huy những ưu điểm đó . So với các dân tộc khác trên thế giới , dân tộc Việt Nam có nhiều điều kiện địa lí tự nhiên thuận lợi nhưng cũng chịu nhiều đau thương mất mát do quá trình đấu tranh với thiên tai địch họa .Lịch sử dân tộc Việt Nam là một chuỗi dài các cuộc kháng chuến giành và giữ độc lập tự do cho dân tộc .Điều kiện hoàn cảnh như vậy đã tôi luyện cho con người Việt Nam sớm có tinh thần yêu nước nồng nàn , ý thức đoàn kết dân tộc , bản lĩnh kiên cường trước mọi khó khăn thử thách ,đức tính cần cù chịu thương chịu khó , sáng tạo dũng cảm .Tinh thần đó đã ăn sâu vào tiềm thức và trở thành truyền thống quý báu của con người Việt Nam nói chung cũng như giới sinh viên nói riêng .Và tinh thần đó được thể hiện khá rõ trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên trong khi còn ngồi trong ghế nhà trường . Đối với sinh viên ,những phong trào thi đua phấn đấu học tập là một trong những hình thức để rèn luyện bản thân , họ khao khát được cống hiến cho đất nước .Những người sinh viên trẻ tuổi của đất nước luôn nỗ lực hết bản thân để có thể trau dồi những tri thức của nhân loại để trang bị hành trang cho mình lập nghiệp mai sau , với hy vọng mang lại sự thịnh vượng giàu có cho tổ quốc thân yêu. Trong quá trình rèn luyện trong mái nhà trường , bản lĩnh chính trị của mỗi sinh viên đều vững vàng hơn . Trong bốn năm vừa qua , hơn 100 trường đại học , cao đẳng đã kết nạp vào Đảng 3.923 trong tổng số 385.851 sinh viên. Điều đó thể hiện được phần nào ý thức rèn luyện phấn đấu của sinh viên. Đội ngũ đảng viên sinh viên có những điểm mạnh riêng .Họ có sự hài hoà giữa đức và tài , giữa năng lực học tập và khả năng công tác xã hội ;tích cực đi đầu trong nhiều phong trào của trường ,Đoàn thanh niên và Hội sinh viên .Dù đang học tập hay đã ra công tác , đa số đã hoàn thành nhiệm vụ , phát huy vai trò tiên phong , gương mẫu của người đảng viên .Nhiều đảng viên sinh viên năng động sáng tạo , dám nghĩ dám làm , dám chịu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao , nói đi đôi với làm , có phong cách làm việc khoa học theo yêu cầu của công cuộc đổi mới . Và không chỉ có miệt mài học tập mà sinh viên còn luôn tích cực tham gia các phong trào xã hội về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của đất nước . Và nồng nàn hơn cả đó là tình cảm giữa con người với con người .Sinh viên tuy học tập vất vả nhưng đời sống tình cảm của sinh viên vẫn thật sâu đậm . Họ sống chân thành và cởi mở với mọi người .Thể hiện được lối sống lành mạnh , thương người như thể thương thân .Và nổi bật trong giới sinh viên đó là phong trào tình nguyện ,những màu áo xanh với nhiệt huyết mãnh liệt của tuổi trẻ , họ tham gia tích cực các phong trào xã hội ,những phong trào thể hiện tình thương yêu con người , họ thắp lên những ngọn lửa ấm tình người qua các chiến dịch mùa hè xanh , vận động hiến máu nhân đạo…Theo các kết quả nghiên cứu đã cho thấy chính những tác động của môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống , nhân cách của sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối sống chăm lo bản thân và người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh viên sống xa nhà lại gắn bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ cũng cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình . Chính những lối sống đẹp đẽ đó càng làm cho sinh viên có thêm được tư tưởng đạo đức tốt .Và đó là một trong những nhân tố giúp phát triển toàn diện cho sinh viên , để sinh viên là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển tiến lên chủ nghĩa xã hội . III. Nguyên nhân của những hạn chế Có rất nhiều những nguyên nhân gây nên tình trạng hạn chế trên ,có thể kể đến các nguyên nhân sau : Thứ nhất, nền kinh tế nước ta tuy có những bước phát triển trong vài năm gần đây nhưng vẫn đang là một trong những nền kinh tế kém phát triển, đại bộ phận dân cư còn nghèo trong khi nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự cạnh tranh khốc liệt, do đó mối lo kinh tế làm con người bất chấp thủ đoạn gây ra những tiêu cực trong xã hội và sự đi xuống của nhân cách. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sinh viên . Thứ hai, nền kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đây đã làm cho nền kinh tế phát triển sôi động, đất nước mở cửa hội nhập và sự du nhập các nền văn hoá ngoại lai là điều khó tránh khỏi ,bên cạnh những tích cực,có cả những mặt tiêu cực. Những mặt tiêu cực ấy bằng hình thức này hay hình thức khác, chúng xâm nhập và tuyên truyền cho lối sống thực dụng tư sản, chúng trực tiếp gặm nhấm ăn mòn những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa, giá trị truyền thống của dân tộc , làm tha hoá con người. Thứ ba, do công tác tuyên truyền giáo dục của Đảng còn có nhiều hạn chế, và đi theo lối mòn, thời đại ngày nay khác hẳn so với thời đại kháng chiến 30 năm trước, do vậy những phương pháp tuyên truyền không còn phù hợp với giới trẻ giàu sự năng động, luôn khát khao những điều mới lạ. Đã có những lúc chúng ta quá chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế mà sao nhãng vấn đề giáo dục tư tưởng đạo đức, lí tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ, hậu quả là thế hệ trẻ ngày nay thiếu hẳn một bầu nhiệt huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với con đường đi lên của dân tộc. Đó là những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề nhân cách sinh viên hiện nay. PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP Đứng trước tình hình đó , chúng ta cần có những giải pháp quyết liệt và có hiệu quả để giải quyết triệt để vấn đề này .Có thể nêu ra các biện pháp giải quyết sau : Thứ nhất, cần đẩy mạnh và đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, đi đôi với thực hiện các công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Phát huy tinh thần dân chủ, sáng kiến của sinh viên, qua đó rèn rũa cho sinh viên phẩm chất của giai cấp công nhân và của con người Việt Nam hiện đại, năng động sáng tạo, cần cù thông minh, có tinh thần hợp tác và chia sẻ . Thứ hai,cần quán triệt hơn nữa chủ trương của Đảng về con người, tuy vậy cũng không nên quá xem trọng nhân tố con người mà bỏ qua các nhân tố khác dẫn đến tình trạng chủ quan duy ý chí như trước đây. Hoàn thiện các điều kiện cho phát triển nguồn lực con người, từ pháp luật đến các chính sách xã hội, y tế , giáo dục, văn hoá, tôn giáo, đảm bảo quyền lợi tự do, công bằng cho mọi công dân. Trong đó giáo dục cần được coi là quốc sách hàng đầu bởi giáo dục chính là tiền đề trực tiếp để xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất trí tuệ v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhân cách sinh viên trong thời kỳ hội nhập với khu vực và thế giới.DOC