Tiểu luận Những lý luận và thực trạng bất cập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh Việt Nam

Theo quy định tại Điều 53 Luật Cạnh tranh (2004), Hội đồng cạnh tranh của Việt Nam là một cơ quan chuyên xử lý – “xét xử hành chính” đối với các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Nói một cách khác, Hội đồng cạnh tranh là một loại cơ quan tài phán vì có đầy đủ những yếu tố cần thiết sau đây:

۵ Áp dụng pháp luật để ra phán quyết;

۵ Thủ tục xử lý mang tính tranh tụng;

۵ Quyết định của Hội đồng cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ thống Tòa án.

Tuy nhiên, khác với các cơ quan xử lý hành chính hiện có trong bộ máy nhà nước, Hội đồng cạnh tranh tổ chức xử lý theo chế độ tập thể chứ không theo chế độ thủ trưởng. Cụ thể, trong số 11 đến 15 thành viên của Hội đồng cạnh tranh,Chủ tịch Hội đồng sẽ lựa chọn ít nhất 05 người để tham gia xử lý một vụ việc cụ thể. Hội đồng xử lý này sẽ quyết định vụ việc theo nguyên tắc biểu quyết đa số.

 

doc12 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3749 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những lý luận và thực trạng bất cập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tụng cạnh tranh: Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục giải quyết, xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Tố tụng cạnh tranh tiến hành theo thủ tục hành chính có những điểm khác với thủ tục tư pháp tại Tòa án và hiện hành được quy định trong Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh. Việc giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 09 năm 2005 quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh). 2. Các chủ thể tham gia tố tụng cạnh tranh: ۵ Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. ۵ Người tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Thành viên hội đồng cạnh tranh, thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên điều trần. ۵ Người tham gia tố tụng cạnh tranh bao gồm: Bên khiếu nại, bên bị điều tra, Luật sư; người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. II. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh: Cơ quan quản lí cạnh tranh: Luật cạnh tranh quy định về cơ quan quản lí cạnh tranh như sau: “Điều 49. Cơ quan Quản lý cạnh tranh. Chính phủ quyết định thành lập và quy định tổ chức, bộ máy của cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật này. Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ thương mại quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.” Từ quy định trên đây, Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp mà cụ thể là thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Có thể khẳng định điều này bởi vì điều 7 Luật cạnh tranh đã quy định: “Điều 7: Trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh: Chính phủ thống nhất Nhà nước quản lý về cạnh tranh. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh” Trong khi đó, Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh là do Bộ trưởng Bộ thương mại (nay là Bộ công thương) để Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm. Hơn nữa ở các quy định liên quan đến thủ tục thực hiện miễn trừ, cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trò như một cơ quan tham mưu, thay mặt cho Bộ thương mại (nay là bộ công thương) đứng ra thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến (để Bộ trưởng Bộ thương mại quyết định hoặc Bộ trưởng Bộ thương mại( nay là Bộ ông thương) trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Nếu căn cứ vào hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, có thể thấy rằng trong hệ thống cơ quan hành pháp của Việt Nam, Cơ quan quản lý cạnh tranh có vị trí tương đương với một Tổng cục thuộc Bộ. Theo quy định tại nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Cơ quan ngang Bộ thì trong cơ cấu, tổ chức, bộ máy của Bộ có thể có Cục hoặc Tổng Cục. Tuy nhiên với cơ quan cấp Cục thì chức năng, nhiệm vụ là do Bộ trưởng quy định còn với cơ quan cấp Tổng cục thì chức năng, nhiệm vụ là do Thủ tướng chính phủ quy định. ♥ Xét về chức năng, theo quy định tại Điều 49 Luật cạnh tranh, Cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam vừa là cơ quan điều tra vừa là cơ quan xử lý vừa là cơ quan hành chính. ۵ Tính chất cơ quan điều tra thể hiện qua nhiệm vụ sau đây: Điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh. Điều tra các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. ۵ Tính chất cơ quan xử lý thể hiện qua quyền hạn được trực tiếp xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. ۵ Tính chất cơ quan hành chính thế hiện qua nhiệm vụ quyền hạn kiểm soát quá trình tập trung kinh tế và thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ thương mại quyết định hoặc Bộ trưởng Bộ thương mại( nay là Bộ trưởng Bộ Công thương) trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. ♥ Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ thương mại. Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo cơ quan quản lý cạnh tranh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 49 của Luật này. ♥ Điều tra viên vụ việc cạnh tranh do Bộ trưởng bộ thương mại bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh và điều tra viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn được quy định tại Điều 52 Luật cạnh tranh, đó là “Người có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể được bổ nhiệm làm điều tra viên: 1. Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan; 2. Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính 3. Có thời gian công tác thực tế ít nhất là năm năm thuộc một trong các lĩnh vực quy định tại khoản 2 Điều này; 4. Được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ điều tra.” Hội đồng cạnh tranh: Theo quy định của Luật Cạnh tranh, đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh( cơ quan quản lý cạnh tranh) chỉ đảm nhận vai trò điều tra, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ có liên quan đến một vụ việc, còn việc xét xử, xử lý, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có liên quan đến vụ việc cạnh tranh thì do Hội đồng cạnh tranh (Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) đảm nhận. Luật cạnh tranh quy định về Hội đồng cạnh tranh như sau: ♥ Theo quy định tại Điều 53 Luật cạnh tranh có thể thấy Hội đồng cạnh tranh là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp. Luật cạnh tranh khẳng định Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có vị trí độc lập tương đối trong mối quan hệ với Bộ thương mại (nay là Bộ Công thương). Có thể thấy điều này qua cơ chế giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh quy định tại mục 7 Chướng V Luật cạnh tranh (Điều 107, 115). Như vậy, Luật cạnh tranh quy định Bộ thương mại( nay là Bộ công thương) là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, các thành viên hội đồng cạnh tranh do Bộ trưởng Bộ thương mại đề nghị Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm nhưng Bộ trưởng Bộ thương mại ( nay là Bộ công thương) lại không có quyền giải quyêt các khiếu nại đối với quyết định của Hội đồng cạnh tranh theo nguyên tắc “ việc giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính trước hết phải do cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp xử lý” quy định tại Luật khiếu nại tố cáo. Nói cách khác, quyết định giải quyết khiếu nại của hội đồng cạnh tranh là quyết định chung thẩm trong hệ thống cơ quan hành chính vì sau khi Hội đồng cạnh tranh giải quyết khiếu nại mà các bên vẫn không đồng ý thì các bên phải kiện ra Tòa. Hội đồng cạnh tranh có từ 11 đến 15 thành viên do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ thương mại. Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh. Như vậy, Hội đồng cạnh tranh có vị trí đặc thù, nó không thuộc bộ công thương, được thành lập do quyết định của chính phủ song nó cũng không thuộc chính phủ (trong một số trường hợp có thể hiểu thuộc chính phủ vì do chính phủ thành lập. Ban thư kí hoạt động thường xuyên. Hội đồng cạnh tranh chỉ giải quyết các việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, mà không giải quyết các vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động nghiệp vụ: được thực hiện thông qua hoạt động của hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh. Khi có vụ việc thì chủ tịch hội đồng cạnh ttranh sẽ thành lập một hội đồng xử lí vụ việc hạn chế cạnh tranh ( theo vụ việc). ♥ Vị trí của Hội đồng cạnh tranh: Điều 2 Nghị định 05/2006/NĐ-CP quy định hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Sự khẳng định nay đã làm rõ các nội dung sau: ۵ Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước chứ không phải là Hội đồng tư vấn. Đây là cơ sở quan trọng để phân biệt Hội đồng cạnh tranh với Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong giao thương quốc tế (gọi tắt là Hội đồng xử lý). Theo Nghị định 04/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006, Hội đồng xử lý chỉ có chức năng tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Công thương trong việc xử lý các vụ việc về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Trong khi đó, Hội đồng cạnh tranh là cơ quan xử lý kết quả điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh về các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Quyết định của Hội đồng cạnh tranh có giá trị bắt buộc thi hành và được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhànước. ۵ Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp có chức năng xử lý vụ việc về cạnh tranh. Luật Cạnh tranh và Nghị định 05/2006/NĐ-CP không khẳng định rõ ràng về bản chất lưỡng tính của Hội đồng cạnh tranh, song nếu dựa vào quy trình tố tụng cạnh tranh mà cơ quan này thực hiện trong việc xử lý vụ việc cạnh tranh, có thể thấy rõ tính chất tài phán của nó. Có thể chứng minh kết luận trên bằng những cơ sở sau: một là, thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng thông qua phiên điều trần để các bên liên quan có cơ hội được trình bày quan điểm và trao đổi trực tiếp với các bên tham gia tố tụng khác và cơ quan tiến hành tố tụng; hai là, việc tiến hành xử lý vụ việc được thực hiện theo một trình tự tố tụng chặt chẽ, rõ ràng và mang tính tài phán chứ không chỉ là xử lý hành chính thông thường theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính; ba là, khi quyết định xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh trong các vụ việc về cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh làm việc theo chế độ tập thể; bốn là, quyết định của Hội đồng cạnh tranh không thể bị khiếu nại trong hệ thống cơ quan hành chính mà phải khởi kiện ra tòa án,... ♥ Chức năng của Hội đồng cạnh tranh: Theo quy định tại Điều 53 Luật Cạnh tranh (2004), Hội đồng cạnh tranh của Việt Nam là một cơ quan chuyên xử lý – “xét xử hành chính” đối với các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Nói một cách khác, Hội đồng cạnh tranh là một loại cơ quan tài phán vì có đầy đủ những yếu tố cần thiết sau đây: ۵ Áp dụng pháp luật để ra phán quyết; ۵ Thủ tục xử lý mang tính tranh tụng; ۵ Quyết định của Hội đồng cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, khác với các cơ quan xử lý hành chính hiện có trong bộ máy nhà nước, Hội đồng cạnh tranh tổ chức xử lý theo chế độ tập thể chứ không theo chế độ thủ trưởng. Cụ thể, trong số 11 đến 15 thành viên của Hội đồng cạnh tranh,Chủ tịch Hội đồng sẽ lựa chọn ít nhất 05 người để tham gia xử lý một vụ việc cụ thể. Hội đồng xử lý này sẽ quyết định vụ việc theo nguyên tắc biểu quyết đa số. ♥ Thẩm quyền của Hội đồng cạnh tranh: Theo Nghị định số 05/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh. Các nhà làm luật Việt Nam đã lựa chọn mô hình hệ thống gồm hai cơ quan có thẩm quyền thực thi luật cạnh tranh và việc phân chia thẩm quyền là tư tưởng căn bản trong việc thực thi luật cạnh tranh. Điều đó đương nhiên sẽ giới hạn thẩm quyền của các cơ quan trong hệ thống thi hành pháp luật theo chiều hướng phân công và chuyên môn hóa khi xử lý vụ việc cạnh tranh. Theo Luật Cạnh tranh, thẩm quyền của Hội đồng cạnh tranh được giới hạn bởi những nội dung sau: ۵ Tổ chức xử lý và giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của pháp luật; ۵ Việc tổ chức xử lý vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh được thực hiện dựa trên kết quả điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh. Nói cách khác, Hội đồng cạnh tranh không có chức năng điều tra vụ việc cạnh tranh; ۵ Hội đồng cạnh tranh không giải quyết triệt để mọi vấn đề đặt ra từ vụ việc cạnh tranh. Theo Luật Cạnh tranh, thủ tục tố tụng cạnh tranh được tiến hành để Hội đồng cạnh tranh xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh chứ không giải quyết yêu cầu về bồi thường thiệt hại; ۵ Về mặt tổ chức, Hội đồng cạnh tranh không trực tiếp xử lý một vụ việc cạnh tranh cụ thể mà thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để giải quyết. ۵ Tòa án có thể can thiệp vào quá trình xử lý vụ việc cạnh tranh. Sau khi Hội đồng cạnh tranh giải quyết khiếu nại mà các bên vẫn không đồng ý thì phát sinh quyền khởi kiện ra tòa án. Sự phân chia và giới hạn thẩm quyền nói trên giữa hai cơ quan thi hành Luật Cạnh tranh cho thấy vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh được xử lý với thủ tục chặt chẽ, phức tạp hơn so với vụ việc cạnh tranh không lành mạnh. Tính phức tạp thể hiện ở vai trò của Hội đồng cạnh tranh trong giai đoạn xử lý vụ việc, theo đó: a. Một khi vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh đã chuyển qua giai đoạn điều tra chính thức thì chỉ có thể bị đình chỉ hoặc được giải quyết bằng một quyết định xử lý của Hội đồng cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ phải thực hiện cho trọn chức trách điều tra và chuyển kết quả cho Hội đồng cạnh tranh xử lý; b. Vụ việc sẽ được giải quyết bằng một hội đồng xử lý cụ thể làm việc theo chế độ tập thể thay vì chế độ thủ trưởng của cơ quan quản lý cạnh tranh như trong vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh. Điều này còn cho thấy thái độ của pháp luật và Nhà nước đối với hành vi hạn chế cạnh tranh. Dường như Nhà nước đã mạnh tay bằng các biện pháp mang tính quyền lực công như biện pháp buộc cơ cấu lại doanh nghiệp; tuyên bố vô hiệu hợp đồng... để đối trọng và kiểm soát quyền lực thị trường. Do tính chất phức tạp và nhạy cảm của các vụ việc cạnh tranh nên yêu cầu về tính chính xác, khách quan của việc xử lý luôn được đặt lên hàng đầu đối với các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh. Các vụ việc cạnh tranh luôn gắn liền với các vấn đề về tự do và bình đẳng trong kinh doanh, đòi hỏi những người có thẩm quyền giải quyết vụ việc phải có những hiểu biết nhất định về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, pháp luật... Vì lẽ ấy, Điều 55 Luật Cạnh tranh quy định thành viên Hội đồng cạnh tranh phải có đủ các tiêu chuẩn sau: “a. Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, khách quan, có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; b. có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính; c. Có thời gian công tác thực tế ít nhất là 9 năm thuộc một trong các lĩnh vực nói trên; d. Có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.” Ngoài ra, các nhà làm luật của Việt Nam và của các nước cũng rất quan tâm đến việc xây dựng cơ chế thẩm tra lại việc xử lý vụ việc cạnh tranh. Luật Cạnh tranh quy định cơ chế khiếu nại theo thủ tục hành chính và khởi kiện theo thủ tục tư pháp đối với việc xử lý vụ việc cạnh tranh. Theo đó, Hội đồng cạnh tranh không trực tiếp ra quyết định xử lý vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh. Cơ quan này sẽ thành lập ra hội đồng xử lý vụ việc để giải quyết một vụ việc cụ thể. Sau đó, khi có khiếu nại của các bên đương sự, Hội đồng cạnh tranh sẽ giải quyết khiếu nại đó để kiểm tra kết quả xử lý vụ việc của hội đồng xử lý. Sau khi Hội đồng cạnh tranh đã giải quyết khiếu nại, các bên liên quan có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại ra tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, khi quyết định của Hội đồng cạnh tranh bị khởi kiện thì tòa án nhân dân của tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có thể thụ lý, giải quyết. Điều này một mặt đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung pháp luật về tổ chức tòa án nhân dân cho phù hợp với Luật Cạnh tranh, trong đó phải phân chia thẩm quyền cho tòa án của từng tỉnh thành một cách hợp lý. Mặt khác, với tình trạng của tòa án nhân dân hiện nay không thể không lo ngại về hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến vụ việc cạnh tranh. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các cán bộ tư pháp ở địa phương của chúng ta dường như còn thiếu kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề của thị trường tự do nói chung mà đặc biệt là các vụ việc cạnh tranh. Ngoài ra, sẽ là vô lý nếu như chúng ta tập hợp hàng loạt chuyên gia về kinh tế – pháp lý để hình thành nên một cơ quan có chuyên môn cao như Hội đồng cạnh tranh hòng tìm kiếm khả năng giải quyết có hiệu quả vụ việc, rồi lại trao việc thẩm tra quyết định đó cho những cán bộ chưa thực sự được chuẩn bị kỹ càng về chất. Kinh nghiệm của các nước như Canada, Hoa Kỳ, ấn Độ,... cho thấy, pháp luật của họ rất quan tâm đến việc thiết kế cơ chế kiểm tra, rà soát có hiệu quả các quyết định của cơ quan thực thi luật cạnh tranh. Những yêu cầu về chuyên môn của vụ việc đã buộc hầu hết các nước phải trao cho Tòa án ở cấp cao nhất hoặc thành lập toà án đặc biệt để giải quyết những yêu cầu xem xét lại các quyết định của cơ quan cạnh tranh. Điều này đặt ra cho chúng ta nhiều điều phải suy nghĩ. III. Những bất cập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh Việt Nam: 3.1. Cơ quan quản lý cạnh tranh: ♥ Trong điều kiện mới được thành lập chưa lâu, số lượng chuyên gia cạnh tranh còn ít thì việc đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên, chuyên gia,… chỉ mới đáp ứng được nhu cầu trước mắt và chất lượng vẫn còn hạn chế. Số lượng các điều tra viên của Cục chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội và người tiêu dùng. ♥ Qua gần 5 năm hoạt động, Cục quản lý cạnh tranh vẫn chưa có nhiều động thái nhằm thể hiện vai trò của mình trong đời sống xã hội và chức năng chuyên biệt của nó trong hệ thống cơ quan nhà nước. Theo một khảo sát gần đây của Cục Quản lý cạnh tranh được thực hiện từ 01/11/2008 đến 31/12/2008 cho thấy hiểu biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh dừng lại ở mức “biết Luật Cạnh tranh mới ra đời” và nhận thức về cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không khả quan hơn. Điều này xuất phát từ nguyên do kết quả hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh chưa tạo được con số ấn tượng . ♥ Hiện nay, Cục Quản lý cạnh tranh được quy định “ôm đồm” quá nhiều chức năng, từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế. Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được quy định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp luật về các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt Nam.Điều này đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh trong thời gian qua. 3.2. Hội đồng cạnh tranh: Tuy mới thành lập và trong điều kiện khó khăn nhất định nhưng thời gian qua, Hội đồng cạnh tranh đã có những cố gắng trong việc hoàn thiện bộ máy về nhân sự, cơ sở vật chất cũng như các công tác về nghiệp vụ khác để chuẩn bị cho Hội đồng cạnh tranh đi vào hoạt động. Bên cạnh đó Hội đồng cạnh tranh cũng đã có những động thái tích cực trong việc phát triển quan hệ quốc tế, quan hệ công chúng, góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh và sự hiện diện của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam ở trong nước và quốc tế như tham dự các Hội thảo, diễn đàn, các khóa học, các chuyến tham quan, thực tập,… ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, Hội đồng cạnh tranh cũng gặp những khó khăn như tính phức tạp của các vụ việc cạnh tranh sắp phải xử lý. Thành viên đều là kiêm nhiệm, và bộ máy còn chưa hoàn chỉnh về nhân sự và biên chế. Sở dĩ như vậy là vì trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh còn tồn tại những hạn chế sau: ♥ Thứ nhất, xét về mặt tổ chức, chúng ta chưa xác định được Hội đồng cạnh tranh trực thuộc Chính phủ hay Bộ Công thương. Nghị định số 05/2006/NĐ-CP cũng mới chỉ quy định Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập mà chưa khẳng định rõ ràng nó trực thuộc cơ quan nào trong bộ máy hành pháp. Với tình trạng lấp lửng này, những cuộc tranh luận về tổ chức của Hội đồng cạnh tranh đến nay vẫn chưa thể kết thúc . ♥ Các luận thuyết nền tảng của pháp luật cạnh tranh đã khẳng định rằng tính độc lập và tự quyết tạo nền tảng vững chắc cho các cơ quan quản lý cạnh tranh hoạt động độc lập và có hiệu quả. Dựa vào nội dung của Nghị định số 05/2006/NĐ-CP khó có thể khẳng định được sự độc lập của Hội đồng cạnh tranh. Việc Bộ trưởng Bộ Công thương có khả năng: đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên và chủ tịch Hội đồng cạnh tranh; quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban thư ký Hội đồng cạnh tranh – bộ phận giúp việc cho Hội đồng; phê duyệt quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh sẽ dẫn đến khả năng chi phối đối với việc tổ chức và hoạt động của cơ quan này. Ngoài ra, kinh phí hoạt động của Hội đồng cạnh tranh được bố trí theo dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công thương . Với những ràng buộc này, các ý định đưa Hội đồng cạnh tranh thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Bộ Công thương là rất mong manh. Dù biết rằng, do sự hạn chế về khả năng lựa chọn nhân sự và những non kém về kinh nghiệm trong việc thực thi pháp luật cạnh tranh đã làm chúng ta không có nhiều khả năng lựa chọn những phương án tối ưu, song điều đó không thể là cơ sở để trao toàn bộ khả năng thi hành đạo luật này cho Bộ Công thương. Nhất là trong điều kiện hiện nay, Bộ này vẫn còn đóng vai trò chủ quản của một số công ty nhà nước quan trọng và những nghi ngờ về tính khách quan trong hoạt động của các cơ quan quản lý cạnh tranh vẫn còn cơ sở . ♥ Về sự phân định thẩm quyền giữa Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Vấn đề này có nhiều điểm chưa thực sự hợp lý mặc dù Luật Cạnh tranh đã chỉ rõ sự phân quyền trong quá trình xử lý vụ việc về hành vi hạn chế cạnh tranh. Căn cứ vào các quy định tại Mục 4 và 5 Chương V của Luật Cạnh tranh 2004 có thể thấy rằng, trong một vụ việc về hành vi lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền xử lý là Hội đồng cạnh tranh, song xét về thực chất cái bóng của cơ quan quản lý cạnh tranh là quá lớn và gần như tất cả các hoạt động tố tụng đều do Cục quản lý cạnh tranh tiến hành. Số lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn. Hội đồng cạnh tranh chỉ có thẩm quyền tổ chức phiên điều trần và ra quyết định xử lý vụ việc, giải quyết các khiếu nại các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh về hành vi hạn chế cạnh tranh. Như vậy, cho dù là cơ quan có quyền cao nhất, nhưng kết quả xử lý của Hội đồng cạnh tranh gần như phải lệ thuộc vào kết quả của các hoạt động tố tụng trước đó của Cục quản lý cạnh tranh. Nếu có bất cứ nghi ngờ gì về kết quả điều tra thì phải trả lại hồ sơ để cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại. Rõ ràng, cách thiết kế cơ chế phân quyền theo các quy định hiện hành có vẻ đảm bảo sự chuyên môn hoá cao độ song lại làm mờ nhạt đi vai trò rất quan trọng của Hội đồng cạnh tranh là xử lý vụ việc . Điều này đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải xây dựng lại cơ chế phân quyền này. Theo các Điều 100, 101, 102 Luật Cạnh tranh và các quy định trong Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005, Hội đồng cạnh tranh có các quyền xử lý kết quả điều tra của cơ quan quản lý cạnh tranh như sau: a. Đình chỉ vụ việc theo đề nghị của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc dựa trên ý chí của người khiếu nại nếu người bị điều tra đã tự nguyện chấm dứt hành vi và khắc phục hậu quả; b. Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung nếu chứng cứ trong kết quả điều tra chưa đủ để kết luận về hành vi vi phạm; c. Mở phiên điều trần để giải quyết vụ việc. Do đó, trong trường hợp có sự xung đột về kết quả điều tra của cơ quan điều tra với kết quả thẩm tra của Hội đồng cạnh tranh trong phiên điều trần sẽ phát sinh nhiều vấn đề pháp lý phức tạp. Khoản 2 Điều 101 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định “Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh chỉ được căn cứ vào kết quả của việc hỏi tại phiên điều trần, tranh luận và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên điều trần”. Nếu như khi thẩm tra, kết quả cho thấy các chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập và sử dụng là không khách quan hoặc có sai lầm khi nhận định, đánh giá, song chứng cứ thu thập lại được tại phiên điều trần chưa đủ để kết luận về hành vi vi phạm thì Hội đồng cạnh tranh sẽ rất khó xử lý bởi lúc này không thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Bên cạnh đó, Hội đồng chưa có những hoạt động nổi bật về các chức năng còn lại (quảng bá, tuyên truyền pháp luật cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm xây dựng, tổ chức của các nước trên thế giới, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh,…). Vì vậy, mô hình tổ chức cũng như hoạt động của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức còn sơ khai, chưa hoàn thiện. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật cạnh tranh, đại học quốc gia/ Đại học kinh tế- Luật. Luật cạnh tranh năm 2004. Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam: Những bất cập và phương hướng hoàn thiện/ Trương Hồng Quang (Tạp chí NCLP, số tháng 6, 3/2011) Nghị định số 06/ 2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. Nghị định số 05/ 2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLCT và BVNTDHK- 21 Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh theo Luật cạnh tranh 2004 8 điểm.doc
Tài liệu liên quan