Tiểu luận Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại

Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclit không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối, mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Theo quan niệm về vận động của ông, lửa chính là cái gốc của sự thay đổi. Tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là sự chuyển hoá của lửa mà thôi. Như vậy ông đã nêu khá rõ về tính thống nhất của vũ trụ.

- Hêraclit đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về "sự trao đổi của các mặt đối lập", về sự tồn tại thống nhất của các mặt đối lập. Ông nói: "Cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này mà biến đổi cái kia và ngược lại cái kia biến đổi là cái này; "cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại; " Gắn bó với nhau: toàn bộ và không toàn bộ, hợp lại và phân cách, hoà hợp và không hoà hợp và từ mọi vật sinh Duy nhất

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8452 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tâm đến mối quan hệ giữa các sự vật, đến quá trình phát triển của sự vật hơn chính bản thân chúng tồn tại một cách riêng lẻ. Họ nhấn mạnh tính chỉnh thể của thế giới hơn từng bộ phận riêng lẻ của thế giới ấy. Tuy nhiên những quan niệm biện chứng sơ khai đó là kết quả trực tiếp, thiên tài của người cổ Hy Lạp, nhưng thiếu những cứ liệu khoa học cụ thể. Những nét đặc trưng này không chỉ là cái phân biệt giữa hai nền triết học Đông - Tây cổ đại mà còn nói lên vị trí vai trò của triết học Hy lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới, nó đặt nền tảng cho sự phát triển triết học Tây âu trên hai ngàn năm về sau. Phần 2 Những thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại Giai đoạn triết học Hy lạp cổ đại là giai đoạn triết học tự nhiên thấm đượm tinh thần của phép biện chứng ngây thơ khi mà thế giới, giới tự nhiên được xem như là một chỉnh thể, không phân chia, tức là nó đã thể hiện ra qua sự quan sát trực tiếp. ở giai đoạn này, thứ triết học tự nhiên đó dường như đã chứa đựng những mầm mống cho mọi học thuyết cơ bản sau này về các bản nguyên và những yếu tố đầu tiên của tự nhiên. Song, khi đó các học thuyết này vẫn chưa được chứng minh và xác minh qua thực tế. Chúng được xây dựng nên từ các luận điểm và quan điểm triết học khác nhau, và do vậy còn mang tính triết học tự nhiên thuần tuý. Nhưng có thể nói, những học thuyết đó đã không thể khác được khi hoàn toàn vắng mặt khoa học tự nhiên thực nghiệm. 1. Học thuyết về các khởi nguyên đầu tiên với tư cách là cái đơn nhất Học thuyết này được hình thành bởi các đại biểu thuộc trường phái Milê, Talet, Anaximăngđrơ, Anaximen đã coi khởi nguyên đầu tiên là một đơn chất nào đó: nước, không khí hay khởi nguyên không xác định cũng được coi như là một chất đơn chất. Cái gì trong quan điểm của họ đã có ảnh hưởng tới sự hình thành hai khuynh hướng cơ bản đã nêu: Đó trước hết là tư tưởng về sự thống nhất của vật chất. Talet cho rằng nguồn gốc thế giới là nước, đó là khởi nguyên của mọi vật ,nước là yếu tố đầu tiên là bản chất chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian này đều sinh ra từ nước và khi bị phân huỷ laị biến thành nước, nước tồn tại vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo ra thì không ngừng biến đổi sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó. Những quan niệm triết học duy vật của ông giải thích giới tự nhiên tuy còn mộc mạc thô sơ, nhưng có ý nghĩa vô thần, chống lại thế giới quan tôn giáo đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng tự phát. Tư tưởng cho rằng vật chất là duy nhất và trong toàn bộ sự đa dạng của nó, luôn tồn tại một sự thống nhất nội tại, thể hiện dưới dạng một khởi nguyên đầu tiên cụ thể. Tư tưởng chủ đạo là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi học thuyết của trường phái Milê, nhưng tư tưởng đó được diễn đạt rất ngây thơ. Khởi nguyên đầu tiên đó đã được xem xét dưới dạng đơn chất và với tư cách một sự vật hoàn toàn cụ thể. Vật chất được coi không phải là cái phổ biến, mà là một cái cảm tính trực tiếp. Khi đó, sự thống nhất của các vật thể tự nhiên khác nhau đã được hiểu theo nghĩa phát sinh, tức là theo nghĩa chúng có nguồn gốc chung là một khởi nguyên đầu tiên nào đó. Tư tưởng đó ở các đại biểu sau này của triết học Hy lạp cổ đại thể hiện ra là tư tưởng về thành phần chung của các vật thể khác nhau, về sự cấu thành từ cùng một số khởi nguyên và yếu tố. Anaximăngđrơ đã phát triển một cách sâu sắc hơn nguyên lý về sự thống nhất của vật chất . Nếu như yếu tố cảm tính trực tiếp đã chiếm ưu thế ở Talet, thì ở Anaximăngđrơ yếu tố đó đã trở nên trừu tượng hơn, đã có được tính chất chung hơn, mặc dù về thực chất, nó vẫn còn ở trình độ tính đơn nhất. Anaximăngđrơ cho rằng nguồn gốc và cơ sở của mọi sự vật là Apâyrôn. Ông không nói về Apâyrôn. là cái gì cụ thể mà chỉ khẳng định đó là một cái vô định hình, vô cùng tận, tồn tại vĩnh viễn bất diệt. Tất cả các tác giả thời cổ cho rằng Apâyrôn của ông mang tính vật chất, một số người cho nó là hỗn hợp của các yếu tố như đất, nước, lửa, không khí. Theo ông mọi sự vật không chỉ có bản chất chung là Apâyrôn. mà còn xuất hiện từ nó. Tự thân Apâyrôn. sinh ra mọi cái, đồng thời là cơ sở vận động của chúng. Apâyrôn. là nguồn gốc của sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau như nóng lạnh, sinh ra- chết đi.. .Như vậy ông đã bác bỏ quan niệm về sự đồng nhất tuyệt đối, không có khác biệt sự vật. Ông nghiên cứu về vấn đề phát sinh và phát triển của các loài động vật. Theo ông, động vật sinh ra ở dưới nước. Sau nhiều năm biến hoá và biến động của thiên nhiên một số giống loài dần dần thích nghi với đời sống trên cạn, phát triển trở nên phong phú và hoàn thiện dần; con người hình thành từ sự biến hoá của cá. Phỏng đoán này chưa có căn cứ khoa học, song tính biện chứng về sự phát triển của các giống loài động vật được ông đề cập tới, đã bác bỏ các quan niệm mục đích luận. Ông cũng là người đầu tiên nêu ra và giải quyết mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái bộ phận. Theo ông cái bộ phận luôn biến đổi, còn cái toàn thể thì bất biến, tư tưởng của ông cho rằng, tổng thể vật chất thì không chuyển thành một tổng thể vật chất nào khác nó, còn các dạng vật chất cụ thể thì thường xuyên biến đổi, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác. Vật chất của ông ít trừu tượng hơn các nhà triết học trước đó là Apâyrôn, một chất vô định hình mà người ta không thể trực quan nhìn thấy được. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Hy lạp cổ đại, vật chất không bị đồng nhất với vật thể cụ thể. Đó là một bước tiến mới về trình độ tư duy trừu tượng của người Hy lạp cổ đại. Chúng ta còn tìm thấy ở Anaximăngđrơ một luận điểm rất thú vị, luận điểm chỉ được phất triển cụ thể ở cuối thế kỷ XIX. Đó là luận điểm gắn liền với việc lý giải về cái gọi là quá trình không thuận nghịch, và qua đó là vấn đề về khởi nguyên và kết thúc của tồn tại vũ trụ. Vấn đề đó có thể được trình bày như sau: Lẽ nào sự phát triển lại có thể bắt đầu sau một trạng thái bất động, đình trệ rất lâu và ngược lại, lẽ nào thời điểm đình trệ hoàn toàn lại có thể bắt đầu sau một quá trình phát triển kéo dài? Khi đặt vấn đề này trên bình diện triết học chung, Anaximăngđrơ đã lý giải vấn đề đó như sau : sự xuất hiện không thể có được sau một trạng thái bất ổn định kéo dài vô tận, cũng giống như không thể có trạng thái ổn định kéo dài sau sự phân hủy, và do vậy, cần phải thừa nhận sự thay thế lẫn nhau một cách bất tận của những sự xuât hiện và phân huỷ. Xét về góc độ triết học thì trong lời lý giải đó đã chứa đựng một tư tưởng đúng về nguyên tắc. ở thế kỷ XIX, tư tưởng đó đã trở thành điểm xuất phát khi giải quyết vấn đề. Lẽ nào quy luật thứ hai của nhiệt động học dưới bất kỳ hình thức nào của nó lại đưa tới kết luận về cái chết nhiệt (hay cái chết Apayrôn) của vũ trụ. Anaximen đã trở lại quan niệm về khởi nguyên đầu tiên với tư cách là một dạng vật chất xác định. ông đã tiếp tục phát triển quan niệm đó khi lý giải khởi nguyên vật chất đầu tiên là một cái gì đó vô hạn về số lượng, là cái gì đó tinh tế, nhỏ bé mỏng manh nhất, chung cho tất cả các chất, và ông đã coi không khí là thứ khởi nguyên đó. Mọi thứ sinh ra từ không khí và lại trở về với không khí. Theo ông, nước hình thành từ sự cô đặc của không khí, và tiếp theo - đất, lửa hình thành từ sự loãng ra của không khí. Theo ông không khí là nguồn gốc, là bản chất của mọi vật và là bản nguyên của thế giới vì nó giữ vai trò rất quan trọng đối với đời sống của tự nhiên và con người. Ông cho rằng hơi thở chính là không khí. Ông đứng trên quan điểm duy vật chất phát cho rằng mặt trời mặt trăng và các vì tinh tú đều từ trái đất mà ra, do trái đất quay nhanh mà bắn ra. Ông cũng tiên đoán trái đất tự xoay quanh mình nó, mưa đá là kết quả đóng băng của các tia nước trên cao và khi băng đó bị không khí làm tan ra thì tạo thành tuyết. Êmpêđôcơlơ vừa là một thiên tài nhiều mặt, đòng thời là một nhà chính khách hoạt động ủng hộ phái chủ nô dân chủ, về triết học Êmpêđôcơlơ cho rằng khởi nguyên của thế giới vật chất không phải là một yếu tố như trường phái Milê quan niệm mà là bốn yếu tố vật chất: đất, nước, không khí, lửa. ông gọi đây là bốn căn nguyên của mọi sự vật hiện tượng. Các sự vật hiện tượngmuôn vẻ của thế giới được hình thành bằng con đường hỗn hợp của bốn căn nguyên và bí mật đi bằng con đường tách biệt của những căn nguyên ấy. Do đó cái được gọi là sinh ra và bị mất đi của mọi sự vật chỉ là sự hợp và phân của bốn căn nguyên : đất, nước, không khí và lửa. Êmpêđôcơlơ cũng nêu lên một số phỏng đoán thiên tài về sự tiến hoá của giới hữu cơ. Theo ông giới hữu cơ tiến hoá theo chu trình gồm 4 thời kỳ :1. Thời kỳ xuất hiện những sinh vật đơn giản; 2. Thời kỳ xuất hiện những sinh vật có nhiều thành phần, tạo nên những loài; 3. Thời kỳ các sinh vật ở giai đoạn đầu của sự phát triển; 4. Thời kỳ thực vật, động vật và con người xuất hiện không phải từ những yếu tố, mà xuất hiện bằng cách tách rời nhau theo hướng nhân lên và các loài được phân biệt rõ ràng. Sự giải thích trên tuy ngây thơ, nhưng có tư tưởng biện chứng về quá trình tấên hoá của sinh vật theo con đường từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp. Anaxago được coi là nhà triết học đầu tiên ở Aten, trung tâm văn hoá của Hy lạp cổ đại. về triết học, Anaxago có quan điểm khác với những nhà triết học trước đó. ông cho rằng, các sự vật và hiện tượng của thế giới có sự khác nhau về chất lượng và do đó, chúng không thể cấu tạo từ một hay một số khởi nguyên đầu tiên như đất, nước, không khí, lửa. Theo ông, cơ sở đầu tiên của tất cả mọi sự vật, hiện tượng là những hạt giống, những hạt giống ấy phân biệt với nhau ở chất lượng muôn màu muôn vẻ. Mỗi vật chỉ có thể nảy sinh từ các hạt giống của mình. Do đó, số lượng các hạt giống là nhiều vô kể như số lượng các sự vật. Từ những hạt giống đó, phát sinh những vật thể đồng chất với chúng, tức là mỗi hạt giống bảo tồn mọi tính chất của sự vật cùng loại. Về sau những hạt đó được Arixtốt gọi là phần tử đồng chất. Vật bị chia nhỏ đến vô cùng thì chất lượng của nó không thay đổi. ở đây Anaxago đã quan niệm đúng về tính vô cùng, vô tận của vật chất. Ông coi mọi cái được trộn lẫn trong mọi cái, vì mỗi sự vật đếu chứa trong mình các hạt giống của những sự vật khác, nhưng những tính chất của nó bị quy định bởi các đặc tính của những hạt giống mà nó có. Vì thế sự biến hoá về chất giữa các sự vật là do sự thay thế phần lớn trong nó cắc hạt giống của các sự vật. ở đây, dưới hình thức sơ khai, ông đã nêu lên tư tưởng biện chứng về mối liên hệ phổ biên giữa các sự vật.Tính hợp lý trong học thuyết của Anaxago là ở chỗ, ông đã đi tìm bản nguyên cấu tạo nên sự vật ở chính sự vật, theo một phương diện độc đáo của mình, góp phần làm phong phú chủ nghĩa duy vật Hy lạp cổ đại. Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác-Lênin. Hêraclit là người sáng lập ra phép biện chứng, hơn nữa ông là người xây dựng trên lập trường duy vật. Ông đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề "cơ sở đầu tiên" của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Song ông lại khác ông cho rằng lửa là bản nguyên cuả thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến cho tất cả mọi sự vật hiện tượng tự nhiên. Ông cho rằng vũ trụ không phải do một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào sáng tạo ra mà nó là vũ trụ, sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất, mà cả những hiện tượng tinh thần. Phép biện chứng của Hêraclit được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm khoa học: - Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclit không có sự vật hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối, mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Theo quan niệm về vận động của ông, lửa chính là cái gốc của sự thay đổi. Tất cả các dạng khác nhau của vật chất chỉ là sự chuyển hoá của lửa mà thôi. Như vậy ông đã nêu khá rõ về tính thống nhất của vũ trụ. - Hêraclit đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về "sự trao đổi của các mặt đối lập", về sự tồn tại thống nhất của các mặt đối lập. Ông nói: "Cùng một cái ở trong chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này mà biến đổi cái kia và ngược lại cái kia biến đổi là cái này; "cái lạnh nóng lên, cái nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại; " Gắn bó với nhau: toàn bộ và không toàn bộ, hợp lại và phân cách, hoà hợp và không hoà hợp và từ mọi vật sinh Duy nhất, từ Duy nhất sinh mọi vật"; "Bệnh tật làm cho sức khoẻ quí hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cái no dễ chịu hơn, mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ chịu hơn. Qua trên cho thất Hêraclit đã phỏng đoán về sự phân đôi của một thể thống nhất thành những mặt đối lập, bài trừ nhau nhưng gắn liền với nhau, về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập ấy. Ông viết :"Nước biển vừa sạch vừa không sạch" và "Tất cả là thống nhất: cái phân chia được và cái không phân chia được, cái được sinh ra và cái không sinh ra, cái chết và cái không chết, cái toàn bộ và cái không toàn bộ, cái qui tụ và cái phân tán, cái động và cái bất động. Khi đánh giá về luận điểm trên Lênin viết: “Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó thực chất là phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng cổ đại Hy lạp Hêraclit”. Hêraclít còn nêu lên những phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Theo ông, cái đồng nhất trong sự khác biệt, đó là cái hài hoà của những cái căng thẳng đối lập. ông còn nêu lên vấn đề sự phân đôi cái đơn nhất. Theo Hêraclit sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do qui luật khách quan (mà ông gọi là logos) qui định. Logos khách quan và trật tự khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phù hợp với khách quan, nhưng nó biểu hiện ở từng người có khác nhau. Người nào có cách tiếp cập logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận nhận thức trên đây mang tính duy vật sơ khai nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ông cho rằng nhận thức bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì không có bất cứ nhận thức nào, ông nói "Mắt, tai là người thầy tốt nhất, nhưng mắt là nhân chứng chính xác hơn tai", coi trọng nhận thức cảm tính, nhưng ông không tuyệt đối hoá giai đoạn này. Ông còn nêu lên tính chất tương đối của nhận thức, tuỳ theo điều khiện và hoàn cảnh mà thiện-ác, xấu tốt, lợi hại chuyển hoá cho nhau. Ông đã đi tìm bản chất của tinh thần không ở ngoài vật chất mà chính ở thế giới vật chất. Hêraclit đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật mang tính biện chứng. Học thuyết của ông sau này được các nhà triết học cận đại và hiện đại kế thừa. Mác-Ăngghen đã đánh giá đúng đắn giá trị triết học của Hêraclit, coi ông là một đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại : Quan điểm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ nhưng cơ bản là đúng: mọi vật tồn tại lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều trong quá trình xuất hiện và biến đi. Với phép biện chứng, mặc dầu chỉ là phép biện chứng tự phát và chất phác, Hêraclit đã đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước phát triển mới. 2. Học thuyết về các bản nguyên đầu tiên với tư cách là cái phổ biến: (Thuyết nguyên tử của Lơxip, Đêmôcrit và Êpiquya) Học thuyết này được xây dựng bởi các nhà triết học Hy lạp cổ đại theo trường phái nguyên tử luận. Nguyên tử luận đã cấu thành giai đoạn thứ 3 trong sự phát triển của học thuyết về các khởi nguyên, các yếu tố đầu tiên của vũ trụ. Tư tưởng chủ đạo trong học thuyết của Lơxip và Đêmôcrit là tư tưởng thừa nhận hai mặt đối lập: Các nguyên tử không thể phân chia và đặc, chúng thể hiện tính đứt đoạn của vật chất, và các khoảng không gian trống rỗng giữa các nguyên tử, khoảng không này thể hiện tính liên tục của không gian. Lơxip là người đầu tiên đã giả định coi nguyên tử thực chất là các nguyên tố mà từ những nguyên tố này đã sản sinh ra các thế giới vô hạn, các thế giới mà sau khi đã hình thành lại phân huỷ ra thành các nguyên tử, cho rằng mọi sự vật đều cấu thành từ những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được, không có chất lượng; các nguyên tử chỉ khác nhau về kích thước và hình thức; sở dĩ có những sự vật khác nhau là vì có hình thức sắp xếp khác nhau của các nguyên tử. Theo Lơxip cái không- tồn tại chính là khoảng chân không –“ không gian rỗng”. Nhờ có không gian rỗng mà các nguyên tử và các vật thể có thể vận động, kết hợp và phân tán Là một trong những nhà duy vật lớn nhất thời cổ đại, Đêmôcrit xây dựng học thuyết nguyên tử luận về thế giới. Theo ông khởi nguyên của thế giới không phải là một sự vật cụ thể nào đó như nhiều nhà triết học trước đó quan niệm mà là các nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, tức tồn tại và khoảng không. Ông cho rằng nguyên tử là cơ sở cấu tạo nên vạn vật; nguyên tử là hạt vật chất vô cùng nhỏ, không nhìn thấy được, không phân chia được; không mùi vị, không màu sắc, không âm thanh; không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Sự vật khác nhau là do nguyên tử được cấu tạo theo những hình thức khác nhau; sắp xếp kế tiếp theo những trật tự khác nhau, và được xoay đặt ở những tư thế khác nhau. Mọi biến đổi của sự vật thực chất là thay đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng, còn bản thân nguyên tử - hạt vật chất nhỏ nhất thì không thay đổi gì cả. Đêmôcrit đã nêu ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận nguyên tử về cấu tạo vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Theo ông sự xuất hiện và tiêu diệt của vô số những thế giới hình thành vũ trụ và tất cả những biến đổi xảy ra trong tự nhiên là những sự kết hợp khác nhau của những nguyên tử vận động trong chân không và tuân theo tính chất của tự nhiên. Ông khẳng định: vũ trụ là vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới phát sinh, phát triển và bị tiêu diệt. Đêmôcrit phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông vận động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết thúc. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Hy lạp cổ đại Đêmôcrit nêu ra khái niệm không gian và ông cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử; bản thân nguyên tử, ở động lực tự thân, tự nó, còn khoảng trống hay “chân không” là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. Đặc điểm nổi bật của chủ nghiã duy vật Đêmôcrit là quyết định luận (đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên), nhằm chống lại mục đích luận ( là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không phải là tính nhân quả mà có tính mục đích) . Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhất của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại. Đêmôcrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự nhiên. Về sự sống con người Đêmôcrit phê phán quan niệm cho rằng, sự sống do thần thánh sinh ra. Theo ông, sự sống là kết quả của quá trình biến đổi của bản thân tự nhiên; được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Nước và bùn là hai môi trường nảy sinh sự sống, làm xuất hiện sinh vật và con người. Sinh vật đầu tiên xuất hiện sống dưới nước, rồi đến sinh vật có vú sống trên mặt đất. Trải qua một quá trình biến đổi lâu dài từ những sinh vật đơn giản rồi đến sinh vật phức tạp và đến con người. Đêmôcrit đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác với nhiều nhà triết học trước đó phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, ông đã chia nhận thức làm hai dạng: Dạng nhận thức tối mờ là dạng nhận thức cảm tính, do các giác quan đem lại và dạng nhận thức chân lý là dạng nhận thức thông qua những phán đoán logíc, dó là dạng nhận thức bản chất của sự vật. Chỉ có dạng nhận thức chân lý mới có khả năng nhận thức được bản chất của sự vật. Vì thế con người không thể dừng lại ở dạng nhận thức mờ tối, mà phải đi sâu hơn để nhận thức bản chất sự vật, đó là chức năng của dạng nhận thức chân lý. Triết học của Đêmôcrit đã đóng một vai trò quan trọng trong chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sở dĩ người ta có quan niệm sai lầm cho là có thần vì con người bị ám ảnh bởi những hiện tượng khủng khiếp trong tự nhiên. Theo ông, khi quan sát những hiện tượng tự nhiên như sấm, chớp, sao băng, nhật thực, nguyệt thực con người không lý giải được nên sợ hãi, coi đó là những tai hoạ do thần thánh gây ra. Những thần của tôn giáo Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng tự nhiên hay những thuộc tính của người; mặt trời mà tôn giáo Hy Lạp đã thần thánh hoá chỉ là một khối lửa; thần Atêna là sự nhân cách hoá lý tính con người. Ông kiên quyết chống lại mọi điều bịa đặt về sự sáng chế của thần thánh. Những quan niệm vô thần của ông đã có tác dụng rất lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm nó có ý nghĩa tiến bộ và có vai trò lịch sử to lớn. Về chính trị-xã hội quan niệm của Đêmôcrit cho rằng hoạt động chính trị, quản lý nhà nước là nghệ thuật cao nhất đem lại vinh dự và vinh quang cho con người, làm cho cuộc sống được hạnh phúc, được tự do. Nhà nước đóng một vai trò duy trì trật tự và điều hành xã hội; trừng phạt nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức. Theo ông thà sống nghèo còn hơn giàu có mà mất dân chủ tự do. Hạnh phúc là sự thanh thản tâm hồn, được tự do. Theo ông đốí tượng nghiên cứu đạo đức học là cuộc sống, hành vi, số phận của mỗi con người riêng biệt; nó phải giải quyết vấn đề hành vi của con người và thái độ của con người đối với bản thân. Hạt nhân trung tâm đạo đức của ông là lương tâm, là sự lành mạnh về tinh thần của mỗi cá nhân. Mỗi người phải sống đúng mực, ôn hoà, không vô độ mà gây hại cho người khác. Ông không chống lại sự giàu có nhưng chống lại sự giàu có quá đáng; ông không chống lại lợi nhuận nhưng chống lại lợi nhuận bất lương “gây hại cho người lương thiện”. Ông nêu cao vai trò của trí tuệ trong đời sống hạnh phúc của con người. Ông nói: “Người hạnh phúc là người có trí tuệ và khả năng tinh thần”, “sống thiếu trí tuệ, không điều độ và không có lỗi lầm, có nghĩa là không xấu nhưng đó là chết dần. Với những thành tựu triết học rực rỡ của đời mình, Đêmôcrit đã đưa chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao mới, mặc dù triết học của ông còn mang tính thô sơ, chất phác. Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật. Tiếp tục thuyết nguyên tử Êpiquya còn có những đóng góp mới. Ông cho rằng các nguyên tử có khác nhau về trọng lượng, do đó chúng vận động theo chiều thẳng đứng từ trên xuống, giống như sự tự rơi của các vật thể như các hạt mưa từ trên trời giơi xuống đất. trong quá trình rơi, các hạt va vào nhau, quyện vào nhau hoặc tách xa nhau. Từ đó ông kết luận rằng các nguyên tử vận động theo qui luật nội tại của chúng, nhưng nó bao hàm yếu tố ngẫu nhiên do sự va vào nhau của các nguyên tử trên đường rơi. Mỗi sự vật không chỉ đơn thuần là tổng số các nguyên tử, mà là một chỉnh thể có những đặc tính nhất định. 3. Học thuyết về các nguyên tố với tư cách là sự phản ứng nguyên tử luận : Học thuyết này xuất hiện trong trường phái của Arixtốt ( thế kỷ IV-TCN) người đã phát triển phương pháp nghiên cứu chung phù hợp với giai đoạn nhận thức đầu tiên về tự nhiên với tư cách một chỉnh thể không phân chia. Trong triết học tự nhiên của Arixtốt với tinh thần duy vật về cơ bản của nó, đã xuât hiện các xu hướng mang tính đối lập, chẳng hạn như việc thừa nhận khởi nguyên tinh thần , phi vật thể- cái tự mục đích, việc thừa nhận sự đối lập giửa yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, hay như Arixtốt nói, giữa yếu tố trời và yếu tố đất. Arixtốt coi tự nhiên là tổng thể những vận động vĩnh hằng, khoảng không gian trong các vật thể đó được lấp đầy bởi vật chất. Khởi nguyên của các vật thể là những yếu tố cảm tính, có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, song đến lượt mình, các yếu tố đó lại có một kết cấu phức tạp. Quan niệm của Arixtốt về thành phần nmguyên tố của vật thể mang nội dung khá đặc biệt. Theo ông , có bốn dạng chất lượng đối lập : lạnh và nóng, khô và ướt. Cả bốn dạng chất lượng này đã được trường phái Milê phát hiện ra. Chúng là các thuộc tính đầu tiên của vật chất, các thuộc tính mà ở những nhà giả thuật sau này được coi là “ các dạng chất lượng đầu tiên” khô và thuộc tính đối lập với nó là ướt , nóng và thuộc tính đối lập với nó là lạnh. Vật chất là vật mang các chất lượng ấy. Các chất lượng này kết hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững thành tựu và hạn chế của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học Hy lạp cổ đại.DOC
Tài liệu liên quan