Tiểu luận Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư

Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày.

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13717 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Từ giữa thế kỷ XVII đến nay, các nhà kinh tế chính trị học tư sản trong chừng mực nhất định đã nghiên cứu vấn đề giá trị thặng dư được tạo ra như thế nào. Nhưng “tất cả các nhà kinh tế chính trị học đều phạm phải cái sai lầm là đã không xét giá trị thặng dư dưới dạng thuần tuý, với tư cách là giá trị thặng dư mà xét dưới hình thái đặc thù là lợi nhuận và địa tô”. Chẳng hạn như W.Petty và trường phái trọng nông Pháp đã coi địa tô là hình thái chung của giá trị thặng dư. A. Smith tuy là người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các phạm trù lợi nhuận, địa tô và lợi tức, nhưng ông không coi bản thân giá trị thặng dư là một phạm trù chuyên môn có hình thái đặc thù khác với lợi nhuận và địa tô . Về sau Ricardo lại nghiên cứu sâu thêm các hình thái đặc thù này; nhưng ông chỉ chú ý nghiên cứu mối quan hệ về lượng, lợi tức và địa tô và vẫn không phát hiện ra phạm trù chung- giá trị thặng dư. Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, rất nhiều các nhà kinh tế phạm phải các sai lầm này. Không kể đến một số nguyên nhân như học thuyết giá trị lao động của họ bị hạn chế về tính giai cấp và thiếu tính khoa học, thì một nguyên nhân quan trọng khác là sự vận dụng sai lầm phương pháp luận của họ được biểu hiện trên hai mặt: Thứ nhất, họ không thể vạch ra tính quy định bản chất từ các hiện tượng kinh tế, “họ chộp lấy một cách thô bạo những tài liệu do kinh nghiệm đem lại và họ chỉ quan tâm đến thứ tài liệu này mà thôi”. Thứ hai, họ chỉ xem xét một cách cô lập các hiện tượng cá biệt trong vận hành kinh tế, không thể vạch ra quan hệ nội tại của các hiện tượng này và sự chuyển hoá quan hệ của chúng. Họ không thông qua bất cứ khâu trung gian chuyển tiếp nào, mà lẫn lộn trực tiếp giá trị thặng dư với các hình thái cụ thể của nó tức là lợi nhuận, lợi tức và địa tô, do đó nảy sinh một loạt các vấn đề: Trình bày không mạch lạc, các mâu thuẫn không được giải quyết và những điều nhảm nhí khác. Và chỉ đến khi Mác phát hiện ra lý luận giá trị thặng dư thì mọi vấn đề khoa học, bản chất mới được làm sáng tỏ. Theo đánh giá của V.I Lênin thì lý luận giá trị thặng dư chính là “hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác”. Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư C. Mác đã hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư sau khi lấy điểm xuất phát là đi từ lý luận giá trị, giá trị thị trường (giá trị trao đổi) và giá cả. Sở dĩ như vậy là vì giá trị là cơ sở của giá trị thặng dư. Phủ nhận lý luận giá trị cũng đồng nghĩa với phủ nhận lý luận giá trị thặng dư và ngược lại. Trước hết, C.Mác nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền thành tư bản (trình bày trong phần 2, quyển 1, tập 23). Thông qua sự phân tích phân biệt tiền thông thường và tiền là tư bản từ hai công thức: H-T-H và T-H-T’, Mác khẳng định: tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù kinh doanh trong ngành nào (công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng…) đều vận động theo công thức chung. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hoá thành tư bản. Do mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng nên vòng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Sau khi đưa ra công thức chung Mác phân tích là trong lưu thông 2 trường hợp: ngang giá và không ngang giá, kể cả gian lận trong mua bán đều không làm tiền tệ lớn lên (đều không sinh ra ∆T). Và từ đây, C.Mác chỉ ra mâu thuẫn của công thức chung tư bản: “ Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông” (C.Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1,tr 216). Và Mác đã giải quyết mâu thuẫn đó xuất phát từ yếu tố H, H chia thành 3 loại: hàng hoá tư liệu sản xuất, hàng hoá tư liệu tiêu dùng và hàng hoá sức lao động, áp dụng phương pháp loại trừ dần và tìm ra hàng hoá sức lao động: một thứ hàng hoá có thuộc tính đăc biệt – tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, nguồn gốc sinh ra ∆T và làm cho T lớn lên. C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện tiền đề: Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình. Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống. Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân. Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: Nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau căn bản: Giá trị của hàng hoá thông thường biểu thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá - sức lao động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất, nó còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống, nghề nghiệp mà hàng hoá thông thường không có. Cũng giống như các hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động có khả năng thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hoàn toàn với hàng hoá thông thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì không những không bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại nó lại tạo ra một lượng giá trị mới c + m ( c + m > v, với v là giá trị sử dụng của bản thân nó). Khoản lớn lên được sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động chính là ∆T hay giá trị thặng dư. Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị hơn thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Và quá trình sản xuất giá trị thặng dư được thực hiên như thê nào? Mác cho rằng: Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là gía trị sử dụng mà là giá trị, nhưng cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. Song, để sản xuất ra giá trị thặng dư thì trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một gía trị sử dụng nào đó, vì gía trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Như vậy: Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra gía trị sử dụng và qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư bằng cách bót lột lao động công nhân làm thuê. Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là qúa trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua nên có hai đặc điểm: Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân. C. Mác đã lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản ở nước Anh làm ví dụ để nghiên cứu qúa trình sản xuất giá trị thặng dư. Phương pháp giả định khoa học mà C.Mác đặt ra để nghiên cứu là: Không xét đến ngoại thương; giá cả thống nhất với giá trị; toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên trong kinh tế tái sản xuất giản đơn. Từ các giả định này, C. Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu: Nhà tư bản muốn sản xuất 10kg sợi đã mua 10kg bông, giá 1$/kg bông, để biến số bông đó thành sợi người công nhân phải lao động trong 6h, giá trị sức lao động là 3$/ ngày, ngày lao động la 12giờ, mỗi giờ lao động người công nhân tạo ra 1 lượng giá trị là: 0,5$ và hao mòn máy móc là: 2$ Nếu công nhân chỉ lao động cho nhà tư bản 6h thì chi phí nhà tư bản ứng ra là: 15$, và giá trị cua sản phẩm mới (10kg sợi) bán đi thu được: 15$, nhà tư bản không thu lợi gì, tiền chưa biến thành tư bản. Nhưng trước khi mua sức lao động nhà tư bản đã tính đến trả tiền mua sức lao động trong 1 ngày và việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền nhà tư bản. Khi đó, ta có: Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm mới Tiền mua 20kg bông 20$ Giá trị của bông chuyển vào sợi 20$ Tiền hao mòn máy móc 4$ Giá trị máy móc chuyển vào sợi 4$ Tiền mua sức lao động 1 ngày 3$ Giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong 12h lao động 6$ Tổng cộng 27$ Tổng cộng 30$ Từ sự nghiên cứu trên rút ra một số nhận xét: Thứ nhất, khi phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20kg sợi), chúng ta thấy có 2 phần: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm mới, gọi là giá trị cũ (24$). Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong qúa trình sản xuất gọi là giá trị mới (6$), phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Từ đó, C. Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra mà nhà tư bản chiếm không. Và: Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là qúa trình sản xuất ra giá trị kéo dài vượt khỏi giới hạn tại một điểm mà giá trị sức lao động được trả ngang giá. Thứ hai, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: Phần thời gian lao động cần thiết: phần ngày lao động mà công nhân tạo ra lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình (3$), lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động cần thiết. Phần thời gian lao động thặng dư: tạo ra giá trị thặng dư (3$) và bị nhà tư bản chiếm không, lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư. Thứ ba, qua nghiên cứu qúa trình sản xuất giá trị thặng dư cho thấy: mâu thuẫn công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó: Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được thứ hàng hoá đặc biệt, đó la hàng hoá sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hoá đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Từ đó tiền của nhà tư bản mới trở thành tư bản. Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai cấp tư sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. Một là, Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối: Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi). Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m’ = 200%) Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai là, Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối: Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi. Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%). Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động. Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Học thuyết giá trị thặng dư - hòn đá tảng trong toàn bộ học thuyết của c.mác. Theo C.Mác: sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản trên cơ sở không ngừng hoàn thiện và phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, là qui luật kinh tế cơ bản của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì: Thứ nhất, nó quyết định bản chất, nguồn gốc và nguyên tắc phân phối cơ bản của xã hội tư bản. Thứ hai, nó chi phối hoạt động của các quy luật kinh tế khác trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Thứ ba, nó quy định sự ra đời, tồn tại, phát triển và chuyển tiếp tất yếu của chế độ tư bản, đồng thời khẳng định tính lịch sử của nó. Trong giai đoạn cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuậ bình quân và lợi nhuậ bình quân. Trong giai đoạn độc quyền, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền. Trong mọi nền sản xuất hàng hoá, sản phẩm thặng dư khi mang trao đổi đều có giá trị nhưng đó là giá trị của sản phẩm thặng dư. Chỉ có trong điều kiện sản xuất tư bản thì Tư bản … (giá trị) nhằm mục đích thu giá trị nhiều hơn. Và phần giá trị dôi ra đó trực tiếp mang hình thái giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư phản ánh quan hệ sản xuất – quan hệ tư bản bóc lột lao động, giá trị thặng dư là phạm trù trừu tượng. Nguồn gốc giàu có của các nhà tư bản chính là giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra. Quy luật giá trị thặng dư ra đời, tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội cao hơn. Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá. Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy cho cùng là bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất mà trước hết là sức lao động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thăng dư là một trong 2 phát kiến vĩ đại của C.Mác. Đó là kết quả của một công trình tiến hành trong suốt cuộc đời của Mác nhằm nghiên cứu quy luật vận động của xã hội tư bản. Từ học thuyết này đã đưa ra kết luận hoàn chỉnh nhất về xã hội tư bản: Một là, vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản – quy luật giá trị thặng dư, và từ đó vạch ra bản chất bóc lột của xã hội tư bản. Hai là, làm rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử nhân loại; làm rõ vai trò và sứ mệnh của giai cấp công nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Như vậy, lý luận giá trị thặng dư của Mác là lý luận khoa học và cách mạng, và hoàn chỉnh, là cơ sở cho sự ra đời và phát triển của các học thuyết khác của Mác: học thuyết về tiền công, học thuyết về tích luỹ Tư bản, học thuyết về quá trình lưu thông Tư bản, khủng hoảng kinh tế, học thuyết về các hình thức biểu hiện giá trị thặng dư, để từ đó hình thành toàn bộ lý luận của chủ nghĩa Mác. Và đó chính là cẩm nang gối đầu cho giai cấp công nhân sử dụng làm vũ lý luận đấu tranh- vũ khi huỷ diệt đối với giai cấp vô sản. Mác viết bộ ‘ Tư bản” cho giai cấp cần lao đọc nên ngôn từ trong sáng, dễ hiểu mà lập luận rất logic, chặt chẽ. Thông qua học thuyết giá trị thặng dư vạch rõ thủ đoạn bóc lột của giai cấp vô sản và cổ vũ giai cấp vô sản đứng lên lật đổ vai trò thống trị của giai cấp tư sản. kết luận Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chông chủ nghĩa tư bản. Song, ý nghĩa thực tiễn của học thuyết đó không phải chỉ là như thế. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu khai thác những di sản lý luận của Mác trở thành việc làm cần thiết, theo các hướng sau đây: Một là, Khai thác những di sản lý luận trong học thuyết này về nền kinh tế hàng hoá. Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác, là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế hàng hoá ở nước ta có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng hoá thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị va giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Cho nên, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Hai là, Khai thác những luận điểm của Mác nói về qúa trình sản xuất, thực hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhằm góp phần vào việc quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo chủa chủ nghĩa xã hội. Ba là, Khai thác di sản của Mác nói về qúa trình tổ chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với qúa trình xã hội hoá sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của qúa trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng vào nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh qúa trình xã hội hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa từ một nề sản xuất nhỏ trên cơ sở sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là CNH, HĐH nền kinh tế nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mọi người lao động. Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên cho phép rút ra kết luận chung: Học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ cở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó còn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào công tác quản lý nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21124.doc
Tài liệu liên quan