Tiểu luận Ô nhiễm không khí và biện pháp khắc phục

Công nhân tíếp xúc với chất độc phải được khám tuyển. Người mắc bệnh không được làm việc tiếp xúc với chất độc. Khám định kỳ (3-6-12 tháng) để kiểm tra sức khỏe, phát hiện người bị nhiễm độc nghề nghiệp và điều trị kịp thời, tiến hành giám định khả năng lao động và bố trí nơi công tác mới thích hợp cho họ.

Đối với công nhân thường xuyên tiếp xúc với chất độc cần được hưởng chế độ bồi dưỡng hiện vật, ăn nhiều đạm, thịt, cá, trứng và rau quả xanh có nhiều sinh tố, nhằm nâng cao sức đề kháng của cơ thể đối với chất độc.

 

doc28 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 13222 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ô nhiễm không khí và biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u đây:  4.1. Biện pháp kỹ thuật - Các loại máy móc và dây chuyền công nghệ lạc hậu, gây nhiều ô nhiễm, cần được thay thế bằng các dây chuyền công nghệ, máy móc hiện đại, ít gây ô nhiễm hơn. - Các loại máy móc chạy bằng than đá, dầu mazut phải được thay thế bằng chạy điện để ngăn chặn ô nhiễm không khí bởi mồ hóng (muội than) và SO2 Cần sử dụng rộng rãi điện năng trong vận tải ô tô thiết kê hoặc thay thế loại động cơ đốt trong đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu, chạy bằng các loại xăng cao cấp để thải ít nhất các chất gây ô nhiễm không khí....Ưu tiên các phương tiện giao thông công cộng và hạn chế xe tư nhân .Với vận tải bằng đường săt, cần điện khí hóa ngành này đồng thời cần phải chuyển các xưởng sửa chữa ra khỏi thành phố.  4.2. Biện pháp quy hoạch - Không được xây dựng các nhà máy nhiệt điện lớn trong thành phố (nếu xây mới); và phải chuyển nó ra khỏi thành phố. Do các nhà máy này trong quá trình sản xuất làm không khí bảo hòa hơi nước, và làm thay đổi tiểu khí hậu dẫn tới độ ẩm không khí cao, giảm giờ nắng trong ngày, số ngày mưa và số ngày sương mù tăng, và do sự đốt cháy không hoàn toàn của nhiên liệu đã làm tăng mức độ nhiễm bẩn của không khí thành phố. - Chỉ giữ lại trong thành phố các xí nghiệp trực tiếp phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của nhân đân, nhưng cần thay thế những máy cũ bằng máy mới, thay đổi qui trình công nghệ với các kỹ thuật hiện đại , nhờ đó giảm chu vi vùng bảo bệ vệ sinh. - Để giảm mức độ ô nhiễm không khí do khí xả của ô tô, cần phải thực hiên các vấn đề về an toàn giao thông(trong thành phố phải có những bãi đỗ xe công cộng, xây dựng các cầu vượt, tạo ra nhiều đường một chiều, phải xây dựng cầu vượt hoặc đường ngầm cho khách bộ hành qua lại ở các ngã tư.... -Sau cùng là tạo ra các diện tích xanh rộng lớn trong thành phố (gồm cả diện tích cây xanhvà diện diện tích mặt nước), lục hóa các vùng bảo vệ, các quảng trường; thiết lập các dải cây xanh nối liền các khu vực khác nhau của thành phố với các rừng, công viên, tăng diện tích cây xanh cho mỗi đẩu người lên trên 50 m2. Bên cạnh đó, cần phải qui định những biện pháp nghiêm ngặt kiểm tra trước hết đối với các xí nghiệp công nghiệp mới, đồng thời áp dụng chocả các xí nghiệp cũ. 4.3. Biện pháp Y tế-Giáo dục - Cần tăng cường mạnh mẽ công tác tuyên truyền giáo dục dưới mọi hình thức về vấn đề phòng chống ô nhiễm - Cần tiến hành các cuộc nghiên cứu sâu sắc hơn, không chỉ giới hạn trong vấn đề kỹ thuật mà còn là ảnh hưởng của các nhân tố làm không khí bị ô nhiễm tác hại lên sức khỏe và bệnh tật, lên môi trường sinh thái như thế nào. Đề xuất được các chiến lược trước mắt và lâu dài phòng chống ô nhiễm không khí cho một khu công nghiệp hay cho cả một vùng lãnh thổ. Ô nhiễm Do Bức xạ: Hiện trạng bức xạ môi trường ở Việt nam Các nguồn bức xạ ion hóa bắt đầu được sử dụng ở Việt nam từ năm 1923 trước tiên là để chữa bệnh ung thư ở Viện Radium Đông Dương nay là bệnh viện K. Trong suốt 80 năm qua, ngành y tế vẫn liên tục sử dụng và sử dụng ngày càng nhiều đồng vị phóng xạ để chữa bệnh u bướu và chẩn đoán một số bệnh. Từ năm 1958, các phương pháp hạt nhân bắt đầu được sử dụng không những cho ngành y tế mà trong cả một số lĩnh vực khác, trước hết là phục vụ việc thăm dò khoáng sản ở miền Bắc. Năm 1963 lò phản ứng hạt nhân đầu tiên với công suất 250 kW ở Đà Lạt được khánh thành và đi vào hoạt động. Tại Viện Vật lý ở Nghĩa Đô, Hà Nội đã đưa vào sử dụng máy phát nơtron 14 MeV năm 1974 và máy gia tốc electron Micrỏton MT-17 năm 1982. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976 ngành hạt nhân nước ta chính thức tập hợp lại với sự ra đời của Viện Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Quốc gia. Năm 2001, tại Viện K, lần đầu tiên ở nước ta bắt đầu sử dụng chùm lượng tử phát ra từ máy gia tốc electron để chữa bênh u bướu. Kể từ khi các nguồn bức xạ ion hóa bắt đầu được sử dụng ở Việt nam tới nay, số nguồn bức xạ ion hóa được đưa vào ứng dụng đã tăng lên nhiều. Phạm vi ứng dụng cũng được mở rộng hơn nhiều so với trước đây. Ngày nay các nguồn bức xạ không chỉ được dùng để chữa trị ung thư như lúc ban đầu mà còn được sử dụng rộng rãi trong y tế, trong công nghiệp giấy, xi măng, thăm dò tài nguyên khoáng sản… và cả trong công nghiệp thực phẩm như các nhà máy bia, nước giải khát, đồ hộp, xử lý bức xạ nhắm tăng cường chất lượng và bảo quản thực phẩm. Ảnh hưởng của tia phóng xạ và chất phóng xạ đối với cơ thể. Tia phóng xạ khi chiếu từ bên ngoài vào bề mặt cơ thể thì được gọi là tia tác dụng ngoại chiếu. Chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể (qua đường thở, đường tiêu hóa), tới tận máu, tận xương, tận các tổ chức của cơ thể đồng thời gây tác dụng chiếu xạ thì tác dụng này gọi là tác dụng nội chiếu (bị chiếu xạ từ bên trong). Chiếu xạ từ bên ngoài hay từ bên trong đều có thể gây nguy hiểm cho cơ thể, nhưng chiếu xạ từ bên trong gây nguy hiểm hơn vì thời gian bị chiếu xạ lâu hơn, diện chiếu xạ rộng hơn, cách đào thải chất phóng xạ ra ngoài cơ thể cũng có những khó khăn nhất định. Về mặt lâm sàng khi chiếu tia phóng xạ hoặc bị nhiễm chất phóng xạ quá liều cơ thể có những biểu hiện sau đây: +Ảnh hưởng sớm – nhiễm phóng xạ cấp tính. Bệnh nhiễm phóng xạ cấp tính có thể xẩy ra rất sớm sau vài giờ hoặc vài ngày, khi cơ thể bị nhiễm xạ toàn thân trong một lúc với liều lượng phóng xạ trên 300Rem. Trong bệnh phóng xạ cấp tính có các triệu chứng sau: - Hiện tượng rối loạn chức phận của hệ thần kinh trung ương, đặc biệt là ở vỏ não: nhức đầu, chóng mặt, nôn mửa, dễ hồi hộp, cáu kỉnh, khó ngủ, chán ăn, cảm giác mệt mỏi. -Da bị bỏng hoặc bị tấy đỏ ở chỗ tia phóng xạ chiếu qua. -Cơ quan tạo máu bị tổn thương nặng nề, các tế bào máu ở ngoại vi và ở tủy xương bị giảm, đặc biệt là ở dòng bạch cầu và tiểu cầu, hồng cầu cũng giảm nhưng muộn hơn, kết quả là bệnh nhân bị thiếu máu nặng, giảm khả năng chống đỡ các bệnh nhiễm trùng, chảy máu kéo dài. - Gầy, sút cân dần dần, có thể chết trong tình trạng suy nhược toàn bộ cơ thể, hoặc bệnh nhiễm trùng nặng. Trong bệnh phóng xạ, còn có những rối loạn chuyển hóa chất về nhiều mặt. Bệnh phóng xạ cấp tính chỉ gặp trong những vụ nổ vũ khí hạt nhân, những tai nạn bất ngờ ở các lò phản ứng nguyên tử, rất hiếm gặp trong điều kiện sản xuất, nghiên cứu thông thường. +Ảnh hưởng muộn - nhiễm phóng xạ mãn tính. Trong bệnh phóng xạ mãn tính, các triệu chứng bệnh xuất hiện muộn, nhiều khi lâu tới hàng năm, hàng chục năm kể từ lúc bị chiếu tia phóng xạ hoặc nhiễm chất phóng xạ. Bệnh xảy ra khi cơ thể bị nhiễm một lúc với liều phóng xạ khoảng trên dưới 200Rem hoặc nhiễm những liều lượng nhỏ tia hoặc chất phóng xạ nhưng trong một khoảng thời gian dài. Triệu chứng sớm nhất trong bệnh nhiễm phóng xạ mãn tính là hội chứng suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, tiếp đó là hiện tượng rối loạn chức phận cơ quan tạo máu, rối loạn chuyển hóa chất đường, lipit, protit, muối khoáng, cuối cùng là sự thoái hóa, suy sụp chức phận ở toàn bộ các cơ quan và hệ thống. Bệnh nhân bị nhiễm xạ mãn tính có thể có hiện tượng đục nhân mắt, ung thư da, ung thư xương,... Bệnh phóng xạ có xảy ra hay không, bệnh nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào các yếu tố sau: -Tổng liều chiếu xạ và liều chiếu xạ mỗi lần. Tổng liều càng lớn tác hại càng mạnh. Nhiễm 300Rem, bệnh nhẹ có thể chữa được. Nhiễm 600Rem, bệnh nặng chắc chắn chết. Cùng một tổng liều, nếu được chiếu phân tán thành nhiều liều nhỏ thì tác hại sẽ ít hơn là bị chiếu gộp cả một lần. -Diện tích cơ thể bị tia phóng xạ chiếu càng rộng càng nguy hiểm, bị chiếu toàn thân nguy hiểm hơn khi bị chiếu ở một bộ phận. Vùng bị chiếu gây ra những tác hại nặng nề nhất là vùng đầu, vùng bụng. -Các tế bào trẻ như tế bào ung thư, tế bào của tổ chức thai nhi có tính mẫn cảm với tia phóng xạ cao hơn các tế bào già trưởng thành. -Tình trạng cơ thể mệt mỏi, đói, nhiễm độc, nhiễm trùng làm tăng thêm tính nhạy cảm của cơ thể đối với tác dụng của tia phóng xạ. -Bản chất vật lý của tia phóng xạ và đặc tính hóa lý của chất phóng xạ. Tia X và nơtroo gây iôn hóa mạnh hơn tia γ. Chất phóng xạ Na24 tác dụng đến tòan thân nhưng thời gian tác dụng ngắn, chất I131 tập trung ở tuyến giáp, chất Sr40 tích lũy ở xương,... Biết rõ đặc tính và tác hại của các loại tia phóng xạ và chất phóng xạ chúng ta có thể đề ra được những biện pháp phòng chống tốt nhất để ngăn ngừa những ảnh hưởng của chúng đối với cơ thể. Và sau đây là SƠ ĐỒ MINH HỌA QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN DO ẢNH HƯỞNG CỦA BỨC XẠ ION HÓA Xuất hiện tế bào Với đặc tính mới lạ BỨC XẠ ION HÓA Tương tác vật lý. Hấp thụ năng lượng của bức xạ Ion hóa và kích thích các phân tử Những phản ứng hóa phóng xạ đầu tiên. Tạo các nhóm và gôc tự do có hoạt tính hóa học cao Những thay đổi của phân tử Rối loạn quá trình sinh hóa của tế bào Những tổn thương của tế bào Tổn thương các cấu trúc Đảm bảo hoạt động chức năng Tổn thương các cấu trúc Đảm bảo hoạt động di truyền Rối loạn hình thái Và hoạt động chức Năng của tế bào Tử vong của tế bào Tổn thương toàn bộ cơ thể Rối loạn hoạt động chức năng của các cơ quan và hệ thống Tử vong của cơ thể Thay đổi hình thái trong cáccơ quan và hệ thống Những hiệu ứng xuất hiện muộn trên các tế bào xôma như giảm sức đề kháng, giảm tuổi thọ, phát triển bệnh máu trắng hoặc ung thư, những thay đổi có tính chất loạn dưỡng của các tổ chức cơ thể. Hậu quả di truyền do bức xạ Quãng thời gian Giai đoạn Từ -10-16 giây đến 10-12 giây 10-9 giây 10-3 giây Từ giây đến hàng phút Từ phút đến hàng giờ Từ phút đến hàng tháng Cả đời của cả cá thể Lâu dài 3. Biện pháp phòng chống nhiễm độc nghề nghiệp 3.1. Cấp cứu Nếu xảy ra nhiễm độc cấp tính thì cán bộ y tế, an toàn lao động phải đến ngay nơi xảy ra nhiễm độc, tổ chức lực lượng cấp cứu ngăn chặn nhiễm độc phối hợp với cơ quan tìm ra nguyên nhân, đề ra phương pháp cải thiện điều kiện lao dộng không cho tái phát. Cách cấp cứu khi có nhiễm độc: -Đưa ngay nạn nhân ra khỏi nơi bị nhiễm độc, thay bỏ quần áo, chú ý giữ yên tĩnh, ủ ấm cho nạn nhân. -Cho ngay nạn nhân thuôc trợ tim, trợ hô hấp hoặc hô hấp nhân tạo. -Mất tri giác thì châm vào ba huyệt: khúc tri, ủy trung, thập tuyền cho chảy máu hoặc bấm ngón tay vào các huyệt đó. -Rửa tay bằng nước xà phòng nơi bị thấm chất độc có tính ăn mòn như kiểm, axit và rửa ngay bằng nước sạch. 3.2. Biện pháp đề phòng chung về kỹ thuật -Loại trừ nguyên liệu độc trong sản xuất hoặc dùng chất ít độc hơn. Cấm dùng chì trong sản xuất sơn màu, thay chì trắng bằng kém hoặc titan, dùng xăng, cồn thay cho benzen. Không dùng bnaphtilamin trong sản xuất thuốc nhuộm (chất gây ung thư). -Cơ khí hóa tự động hóa trong quá trình sản xuất hóa chất. Các nhà máy hóa chất hiện đại được tự động hóa sản xuất, điều khiển từ xa và để ngỏ ở ngoài trời, sẽ tránh được nhiễm độc và không gây ứ đọng chất độc. -Bọc kín máy móc và thường xuyên kiểm tra chất lượng xem có rò, rỉ, nứt, hở không và sửa chữa kịp thời. -Tổ chức hợp lý quá trình sản xuất. Bố trí riêng các bộ phận tỏa ra hơi độc. Nếu nhà có nhiều tầng, hơi độc có tỷ trọng nhỏ hơn không khí thì nên bố trí bộ phận có hơi độc ở tầng cao và đặt ở cuối chiều gió. Tường, trần, sàn xây bằng vật liệu không hút ẩm, không ăn mòn và dễ lau chùi. -Nếu không thẻ khép kín được quá trình công nghệ thì phải tổ chức thông gió hút hơi khí độc tại chỗ. Ngoài ra phải thiết kế hệ thống thông gió, bơm không khí sạch vào nơi sản xuất để hạ thấp nồng độ chất độc còn lại xuống mức cho phép. -Xây dựng và kiện toàn chế độ công tác an toàn lao động. Kiện toàn công tác bảo hộ lao động, huấn luyện cho công nhân về vệ sinh an toàn trong kỹ nghệ hóa chất: biết đường xâm nhập của chất độc vào cơ thể, biết các triệu chứng nhiễm độc đầu tiên, biết cách tự cấp cứu và tương cứu khi bị nhiễm độc cấp tính. Huấn luyện kỹ thuật an toàn trong thao tác, sử dụng các thiết bị, biết bảo quản sử dụng thiết bị phòng hộ cá nhân. Có kế hoạch kiểm tra an toàn máy móc, kịp thời pháp hiện hư hỏng và tu sửa ngay. Thường xuyên theo dõi các công trình thiết bị thông gió, chống hơi, khí, bụi độc để kịp thời sửa chữa khi bị hư hỏng. Làm việc trong gầm tàu, két xăng kín, giếng bỏ lâu không dùng phải kiểm tra hơi khí độc trước khi làm. Khi làm phải có hai người, một người làm và một người theo dõi đề phòng sự cố. 3.3. Dụng cụ phòng hộ cá nhân. Dùng mặt nạ phòng độc tùy theo chất độc mà dùng các loại mặt nạ có chất khử độc tương ứng. 3.4. Biện pháp y tế Công nhân tíếp xúc với chất độc phải được khám tuyển. Người mắc bệnh không được làm việc tiếp xúc với chất độc. Khám định kỳ (3-6-12 tháng) để kiểm tra sức khỏe, phát hiện người bị nhiễm độc nghề nghiệp và điều trị kịp thời, tiến hành giám định khả năng lao động và bố trí nơi công tác mới thích hợp cho họ. Đối với công nhân thường xuyên tiếp xúc với chất độc cần được hưởng chế độ bồi dưỡng hiện vật, ăn nhiều đạm, thịt, cá, trứng và rau quả xanh có nhiều sinh tố, nhằm nâng cao sức đề kháng của cơ thể đối với chất độc. 4. Các yêu cầu vệ sinh và an toàn khi làm việc tiếp xúc với tia phóng xạ. Nguồn phóng xạ được chia thành nguồn phóng xạ kín và nguồn phóng xạ hở. 4.1. Tiếp xúc với nguồn phóng xạ kín. Tiếp xúc với nguồn phóng xạ kín là tiếp xúc với tia phóng xạ không phải trực tiếp đụng chạm tới chất phóng xạ trong quá trình làm việc. Thí dụ: dùng tia rơnghen để chuẩn đoán và điều trị bệnh. Dùng tia γ của Co60 kiểm tra những vết rạn nứt ở kim loại hoặc đường ống,... Để hạn chế đến mức tối thiểu tác dụng của tia phóng xạ đối với cơ thể, cần thực hiện những biện pháp sau đây: a)Bóng phát tia rơnghen phải được bọc bớt bằng vỏ chì, các chất phóng xạ lúc bình thường để trong hộp chì kín. Bảng dưới đây là bề dày cần thiết của lớp chì bảo vệ. Để bọc bóng rơnghen Để đựng chất phóng xạ Điện thế của máy (Kv) Bề dày lớp vỏ chì (mm) Lượng chất phóng xạ (mgRa) Bề dày lớp vỏ chì 75 1 50 5.5 100 1.5 200 8 125 2 500 10 175 3 1000 11.5 200 4 5000 15 300 9 400 15 10000 17 Khi dùng chỉ cần hé độ mở cần thiết, không nên mở quá rộng vì tia phóng xạ phát ra xung quanh sẽ nhiều. b)Do cường độ chiếu xạ ở nơi làm việc tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cơ thể đến nguồn, nên trong thao tác cơ thể càng xa nguồn càng ít nguy hiểm. Khoảng cách xa gấp đôi, cường độ chiếu sáng giảm bốn lần, xa gấp ba, cường độ chiếu sáng giảm chín lần. Thời gian bị chiếu xạ càng ngắn càng tốt. Mối quan hệ giữa cường độ của nguồn, thời gian chiếu và khoảng cách từ nguồn đến cơ thể đảm bảo không bị nguy hại đối với cơ thể tính theo công thức sau: M.t/R2 <= 60 (1) (trang 135, tao không có cái phần đánh công thức tóan học ở đây) Trong đó: M: cường độ nguồn phóng xạ, mg Rad (1mg Radi tương ứng 8.4 R) t: thời gian bị chiếu xạ (h) R: khoảng cách từ cơ thể tới nguồn phóng xạ (m) Nếu hoạt tính nguồn phóng xạ tính theo đơn vị milicuri (mci) thì: Q.t.Kr/8.4R2 <= 60 (2) Trong đó: Q: hoạt tính nguồn phóng xạ (mci) R: khoảng cách từ cơ thể tới nguồn phóng xạ (m) T: thời gian bị chiếu xạ (h) Kr: hằng số ion hóa của chất phóng xạ. Thay thế những trị số đã biết vào công thức trên có thể tìm được cường độ nguồn tối đa cho phép, khoảng cách so với nguồn hoặc thời gian tiếp xúc chỉ nên là bao nhiêu. Các công thức trên cũng vận dụng chung cho cả trường hợp tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở. Thí dụ: có nguồn phóng xạ 60 mgradi, khoảng thời gian tiếp xúc mỗi ngày 1h dùng công thức (1) có thể tính được khoảng cách an toàn là R>= 1m, hoặc dùng nguồn phóng xạ I131 ở cách nguồn 1m, thời gian làm việc mỗi ngày 2h, như vậy cường độ nguồn sử dụng cho phép tối đa tính theo công thức (2) sẽ là Q <= 21.9 mic, biết Kr của I131 là 2.3. c)Buồng rơnghen hoặc buồn sử dụng các tia phóng xạ phải có kích thước đủ rộng trong phòng không được để nhiều đồ đạc để hạ chế phát sinh các thia phóng xạ thứ nhất. Các buồng này cần bố trí riêng biệt có tường bêtông dày, xa nơi tụ tập động hoặc có nhiều người qua lại. Nếu là phong X quang chuẩn đoán bệnh, thì bệnh nhân khi đợi khám phải ngồi đợi ở ngoài, ngăn cách với buồng chiếu bởi lớp tường bê tông dày, không nên ngồi sát cửa vì cửa kính và gỗ không đủ sức cản sự xuyên thấu của tia. d)Trong lúc làm việc, nhân viên công tác phải đeo tạp dề cao su,mang găng tay và đi ủng cao su, đeo kính. Các động tác phải chính xác, nhanh nhẹn để giảm tới mức tối thiểu thời gian tiếp xúc với tia phóng xạ, không được làm việc khác trong buồng phóng xạ. 4.2. Tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở Khi tíếp xúc với các quặng phóng xạ, dung dịch lỏng, khí, pin phóng xạ, nhân viên công tác, ngoài vấn đề chịu tác dụng của tia phóng xạ ngoại chiếu, còn có thể bị tác dụng nội chiếu của tia phóng xạ. Tác dụng nội chiếu xảy ra khi chát phóng xạ dưới dạng hơi, khí, lỏng, rắn hay dạng bụi bị xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, tiêu hóa hoặc đường da. Các biện pháp ngăn ngừa chất phóng xạ vào cơ thể tương tự như các biên pháp phòng chống độc, chống bụi trong công nghiệp. Thông thường tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở là nhân viên các phòng thí nghiệm phóng xạ và công nhân khai thác, vận chuyển, chế biến quặng phóng xạ. a)Yêu cầu vệ sinh an toàn với các buồng thí nghiệm phóng xạ -Các phóng thí nghiệm phóng xạ phải bố trí riêng biệt, có chu vi bảo vệ từ 50-300m tùy theo độc tính và khối lượng chất phóng xạ sử dụng. Diện tích làm việc tối thiểu cho mỗi nhân viên công tác là 4.7m2. Các phòng thí nghiệm dùng chất phóng xạ có hoạt dính thấp có thể xây dựng trong một nhà chung với các phòng làm việc khác nhưng phải ngăn cách riêng, xa các bộ phận khác và phải có cửa ra vào riêng. Dưới đây là ba loại phòng thí nghiệm phóng xạ với ba chu vi bảo vệ khác nhau (Xem bảng dưới đây) Chất phóng xạ Phòng loại C Phòng loại B Phòng loại A Lượng chất phóng xạ dùng Loại chất phóng xạ cực độc Loại chất phóng xạ độc tính cao Loại chất phóng xạ độc tính trung bình Loại chất phóng xạ độc tính thấp < 50μci < 500μci < 5mci < 50mci < 50μci-5mci <500μci-50mci < 5mci-500mci < 50mci-5ci > 5mci > 50mci > 500mci > 5ci Chất phóng xạ cực độc: Sr90, Y90, Po210, At211, Ra226, Ac227, Pu239, Am241 Chất phóng xạ độc tính cao: Ca45, F59, Sr89, Y91, Ru106, I131, Ba110,... Chất phóng xạ độc tính trung bình: Na24, P32, S35, K42, Se46, Sc47,... Chất phóng xạ độc tính thấp: H3, C14, F18, Gr51, Ga71, TL201, N17,... Số hợp chất phóng xạ cho sử dụng còn được điều chỉnh lại tùy theo tính chất thao tác. Hệ số điều chỉnh như sau thao tác hóa học thông thường là 1. Thao tác ẩm đơn giản – 10, thao tác ẩm phức tạp có nguy hiểm – 0.1, thao tác khô đơn giản – 0.1, thao tác có phát sinh bụi 0.01. -Kiến trúc, trang bị của phòng thí nghiệm phóng xạ cần hết sức giảm bớt tính hấp thụ phóng xạ, dễ cọ rửa và tẩy xạ. Mặt sàn của phòng phải bóng, không có khe, kẽ và chịu được axit. Nên lót sàn nhà bằng nhựa tổng hợp, vải sơn hoặc cao su cứng thì chỗ tiếp nối các tấm lót ẩm phải khít, kín, chỗ giáp tường phải lót cao lên phía mặt tường phải thêm ít nhất 20cm. Tường từ độ cao 2m trở xuống và mặt sàn phải sơn bóng nhẵn, chỗ tiếp nối tường và trần nên làm thành góc tròn. Khi dùng chất phóng xạ có thể bay hơi hay bụi thì toàn bộ trần và tường phải quét sơn. Cửa sổ không nên có nhiều khe kẽ, góc cạnh có thể bắt bụi, hoặc giữ bụi. Các mặt bàn thí nghiệm, các tủ công tác cần làm bằng chất nhẵn bóng, chịu axit và dễ lau chùi, như thủy tinh, gạch chịu axit, gạch men,... Trong phòng không được đặt các đồ dùng không cần thiết cho công tác xét nghiệm như các tủ gỗ, ghế đệm, rèm, mành,... Cần phân rõ bộ phận sạch và bộ phận bị nhiễm xạ. Dụng cụ đã bị nhiễm chất phóng xạ rồi phải để riêng, tránh nhầm lẫn, phải thường xuyên thông gió trong phòng thí nghiệm, dùng thông gió cơ khí chạy toàn phòng hoặc thông gió cục bộ riêng trong quầy kính. Bội số trao đổi không khí phải trên năm lần mỗi giờ nếu lượng chất phóng xạ từ 1-10mci, hoặc trên 10 lần mỗi giờ nếu lượng chát phóng xạ > 10mci. Lỗ hút không khí ra phải đặt ở cuối chiều gió chính và phải cao hơn nóc công trình lân cận 3-4m, ở xa chỗ lấy không khí vào phòng ít nhất 20m. Máy quạt gió đặt ở cuối đường ống thải khí (thông gió kiểu hút ra) và nên dùng loại quạt ly tâm. -Khu vực phòng thí nghiệm phóng xạ cần có những phương tiện và cơ sở phục vụ sau đây: +Một phòng chứa các chất đồng vị phóng xạ thường dùng, thường đặt ngầm dưới đất, có đủ thiết bị ngăn cản được tia gamma và thông gió tốt. +Các vòi rửa nước nóng, nước lạnh, các thùng rác đạp mở bằng chân đặt ở trong và ngoài phòng thí nghiệm phóng xạ. +Một phòng nuôi nhốt các động vật nhiễm phóng xạ, trong phòng này cũng phải được lát gạch men và quét sơn tường, trần, chuồng nuôi. Phân, nước tiểu, xác động vật bị nhiễm chất phóng xạ phải chôn sâu ở một nơi riêng xa các nguồn nước, phải có sẵn nước để cọ rửa hàng ngày phòng và chuồng nuôi động vật. +Khi dùng nguồn phóng xạ hở có liều lượng trên 10mci cần phải có nơi tắm rửa cho nhân viên công tác sau ngày làm việc. Khi dùng nguồn phóng xạ hở có liều lượng 100mci phải có thêm phòng tẩy xạ người và quần áo, trong phòng có máy đo liều lượng nhiễm xạ để kiểm tra. +Khi dùng chất phóng xạ phát tia γ, phòng thí nghiệm phải có thiết bị phòng tia γ như gạch, chì, các tấm che bằng thủy tinh chì các kìm dài và các dụng cụ thao tác ở cự ly xa. -Nhân viên công tác tiếp xúc với chất phóng xạ ở phòng thí nghiệm phải được trang bị những phương tiện phòng hộ cá nhân cần thiết như sau: +Quần áo công tác may bằng loại vải nhỏ sợi, bóng, sáng, không bắt bụi, mũ che kín đầu tóc làm bằng vải mềm. +Găng tay cao su hoặc bằng chất dẻo, mặt trong và mặt ngoài găng phải có màu sắc khác để phân biệt. +Tạp dề, bao tay làm bằng chất dẻo để che chở cho các bộ phận dễ bị nhiễm xạ nhất. +Tất và giầy khi làm việc. +Khẩu trang phòng bụi phóng xạ, hiệu suất lọc bụi của khẩu trang ít nhất phải là 97%. +Các tấm che mặt hoặc làm bằng kính thủy tinh hữu cơ dùng để ngăn một phần tia beta và chống các dung dịch phóng xạ bắn vào mắt. -Trước khi vào làm việc trong phòng thí nghiệm phóng xạ, cần mặc đủ quần áo làm việc và các trang bị phòng hộ khác, nhẩm tính lại dộng tác thao tác cho thành thục, tiết kiệm thời gian. Trong khi làm việc không được dùng mồm để hút các dung dịch phóng xạ, không được hút thuốc lá, ăn quà bánh, không được để thực phẩm và dụng cụ cá nhân trong phòng làm việc, phải biết tận dụng các thiết bị và dụng cụ phòng hộ. Sau khi làm việc xong không được tùy tiện mang các dụng cụ từ trong phòng ra ngoài. Phải thay tòan bộ quần áo làm việc, tắm rửa sạch sẽ và kiểm tra liều lượng nhiễm xạ trước khi ra về. Thời gian chiếu xạ tối đa cho phe

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÔ nhiễm không khí và biện pháp khắc phục.doc
Tài liệu liên quan