Tiểu luận Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng, ý nghĩa pháp lý của việc phân loại đó

Mục lục

 

Mở đầu 2

Nội dung đề tài 3

Chương I: Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng 4

I. Khái niệm tổ chức tín dụng: 4

II. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng 5

Chương II: Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng 6

I. Phân loại các hình thức cho vay của tổ chức tín dụng 6

1. Phân loại cho vay căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay: 6

2. Phân loại cho vay dựa vào tính chất có bảo đảm của khoản vay: 7

3. Phân loại dựa theo mục đích sử dụng vốn: 8

4. Phân loại cho vay dựa vào phương thức cho vay: 8

II. Ý nghĩa pháp lý của việc phân loại cho vay của tổ chức tín dụng 10

1. Đối với nền kinh tế xã hội: 10

2. Đối với doanh nghiệp: 11

3. Đối với các tổ chức tín dụng: 11

Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng 12

1. Bồi dưỡng giáo dục phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ 12

2. Xác định thời hạn trả nợ và cách thức tính lãi phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của dự án 13

3. Thu thập, đánh giá và xử lý thông tin để có những nhận thức chính xác về khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. 13

4. Thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng 13

5. Coi trọng công tác phòng ngừa, đồng thời xử lý nhanh chóng dứt điểm đối với nợ quá hạn. 13

6. Tăng cường sự quản lí của Nhà nước đối với các doanh nghiệp 14

7. Tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng có liên quan 14

Kết luận 15

Tài liệu tham khảo 16

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6780 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng, ý nghĩa pháp lý của việc phân loại đó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Mở đầu Đất nước ta hiện nay đang tiến hàn công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, nền sản xuất của chúng ta cũng ở mức độ thấp, trang thiết bị và công nghệ cũng lạc hậu. Vì vậy, vấn đề quan trọng hiện nay đặt ra đối với các Doanh nghiệp là phải chú trọng đầu tư mở rộng tài sản cố định, đầu tư theo chiều sâu, nhằm hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ, hoàn thành và nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Muốn thực hiện được điều này, các Doanh nghiệp cần phải sử dụng đến một khối lượng vốn khá lớn. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động với nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng hoặc các Ngân hàng thương mại, tuy nhiên, nghiệp vụ cho vay của các tổ chức tín dụng còn có rất nhiều vấn đề tồn đọng gây nên nhiều hạn chế cho doanh nghiệp cùng với sự phát triển của doanh nghiệp. Vì thế, trong khuôn khổ đề tài: “Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng, ý nghĩa pháp lý của việc phân loại đó” mong làm rõ phần nào về vấn đề cho vay của các tổ chức tín dụng và vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề này nhằm nâng cao nghiệp vụ cho vay của các tổ chức tín dụng cũng như góp phần tăng trưởng kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Nội dung đề tài Bố cục đề tài được chia làm 3 chương lớn: Chương I: Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng Chương II: Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cho vay của các tổ chức tín dụng Do nguồn tài liệu cũng như kiến thức còn hạn chế và cũng khó có thể tránh khỏi những lỗi nhỏ trong quá trình xây dựng đề tài này, rất mong có sự đóng góp ý kiến chân thành từ phía thầy cô để đề tài này hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn!!! Chương I: Khái quát về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng Khái niệm tổ chức tín dụng: Tại Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997, được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004 có hiệu lực thi hành từ 01/10/2004 quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật để họat động ngân hàng”. Nội dung kinh doanh chủ yếu của tổ chức tín dụng là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Theo đó, ta có thể thấy đặc điểm của tổ chức tín dụng bao gồm những điểm như sau: * Là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ. * Họat động ngân hàng là hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính chất nghề nghiệp. * Chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật Ngân hàng. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng Cho vay là hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa chung nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác được quyền sử dụng tài sản của mình (vật cùng loại) trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tín nhiệm của mình đối với người đó. Họat động cho vay của tổ chức tín dụng còn thể hiện những dấu hiệu có tính đặc thù sau: Việc cho vay của tổ chức tín dụng là họat động nghề nghiệp kinh doanh mang tính chức năng. Mặc dù theo pháp luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như một họat động kinh doanh nhưng họat động cho vay của các tổ chức này hoàn toàn không phải là nghề nghiệp mang tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng. Họat động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện. Điều kiện thể hiện ở chỗ họat động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện nhất đinh như phải có vốn pháp định; phải được Ngân hàng nhà nước cấp giấy phép họat động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng kí kinh doanh theo luật định. Ngoài việc tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về ngân hàng, thậm chí kể cả các tập quán thương mại về ngân hàng, đặc điểm này bị chi phối bởi tính chất đặc thù trong nghề nghiệp kinh doanh của tổ chức tín dụng như tính rủi ro cao và sự ảnh hưởng mang tính chất dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Chương II: Phân loại cho vay của tổ chức tín dụng I. Phân loại các hình thức cho vay của tổ chức tín dụng Việc phân loại cho vay của tổ chức tín dụng có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn. Điều đó thể hiện ở chỗ, dựa vào kết quả phân loại cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, cũng dựa trên kết quả phân loại cho vay mà mỗi tổ chức tín dụng có thể tự xây dựng, hoạch định cho mình chiến lược kinh doanh mang tính khả thi và hiệu quả. Phân loại cho vay căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn vay: Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thoả thuận là đến 1 năm. Hình thức cho vay này chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời gian ngắn. Cho vay trung hạn và dài hạn: Đây là hình thức cho vay trong đó thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thoả thuận là từ trên một năm trở lên. Hình thức cho vay này thường được sử dụng để thoả mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định của khách hàng trong kinh doanh hoặc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại,… Phân loại cho vay dựa vào tính chất có bảo đảm của khoản vay: Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Đây là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả nợ tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc người thứ ba. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chứa đựng khả năng rủi ro, điều đó rất có thể kéo theo rủi ro của tổ chức tín dụng cho vay vốn. Bởi vậy trên thực tế, đảm bảo thường được coi là điều kiện quan trọng trong mọi nghiệp vụ cho vay của tổ chức tín dụng. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản của người vay là hình thức cho vay qua sự xác định giá trị của tài sản mà khách hàng cầm cố hay thế chấp cho tổ chức tín dụng khi vay vốn. Tài sản cầm cố thế chấp có thể là động sản hoặc bất động sản. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản khách hang vay chủ yếu được thực hiện bằng các hình thức: Cho vay cầm cố bằng chứng khoán. Cho vay cầm cố bằng thương phiếu. Cho vay cầm cố bằng hợp động thầu khoán. Cho vay cầm cố bằng hàng hoá. Cho vay thế chấp bằng bất động sản. Cho vay có đảm bảo của người bảo lãnh. Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Đây là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ hoàn trả lại tiền vay không được đảm bảo bằng các tài sản của khách hàng vay hoặc của người thứ ba. Để thực hiện việc cho vay theo hình thức này, thông thường các bên chỉ cần giao kết một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng khi cho vay chỉ dựa vào uy tín khách hàng để xem xét cho vay. Khách hàng uy tín là khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, trung thực trong kinh doanh, quản trị kinh doanh có hiệu quả, có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong sử dụng vốn vay, hoàn trả nợ cả gốc và lãi. Hiện nay theo Nghị định 85/2003/NĐ-CP ngày 25/10/2003 của Chính phủ, những khách hàng vay vốn phải có đủ những điều kiện sau đây: Sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi hiệu quả hoặc dự án đầu tư phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật. Có khả năng tài chính để trả nợ vay. Có cam kết bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng. Cam kết trong hợp đồng tín dụng, cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp đảm bảo bằng tài sản theo quy định. Phân loại dựa theo mục đích sử dụng vốn: Cho vay kinh doanh: Là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng và mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu sau khi được giải ngân mà người vay lại sử dụng vốn vào mục đích khác thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay có quyền áp dụng các chế tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn… Cho vay tiêu dùng: Đây là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào việc thoả mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, thậm chí bao gồm cả việc sử dụng vốn vay vào mục đích học tập của sinh viên, học viên… Phân loại cho vay dựa vào phương thức cho vay: Cho vay từng lần: Theo phương thức này, mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng phải thực hiện vay vốn và kí kết hợp đồng tín dụng theo quy định. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Với phương thức này, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất định đồng thời kí kết hợp đồng tín dụng cho cả thời gian duy trì hạn mức tín dụng đó. Cho vay theo dự án đầu tư Với phương thức này, tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Cho vay hợp vốn Theo phương thức này, một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức trả phí cho hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Theo phương thức này, tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán quan các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Ngày nay, trong điều kiện quốc tế hoá cao độ hoạt động ngân hàng và sự bùng nổ mạnh mẽ của các dịch vụ tài chính, việc phân loại như trên đây về các hình thức cho vay của tổ chức tín dụng sẽ chỉ có tính chất tương đối. Các tổ chức tín dụng đang có xu hướng ngày càng mở rộng các sản phẩm mới về dịch vụ tài chính, trong đó bao gồm cả việc đa dạng hoá mạnh mẽ các hình thức cho vay đối với khách hàng. II. Ý nghĩa pháp lý của việc phân loại cho vay của tổ chức tín dụng Đối với nền kinh tế xã hội: Thúc đẩy nền sản xuất phát triển: Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế, các tổ chức tín dụng thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, từ đó, phục vụ cho sự nghiệp tăng trưởng nền kinh tế. Mặt khác, trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro các tổ chức tín dụng luôn đánh gía, phân tích khả năng tài chính và thường xuyên giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết, hướng hoạt động của doanh nghiệp đi đúng hướng. Do vậy, hình thức cho vay đó giúp phần thức đẩy sản xuất phát triển vững mạnh, từng bước tạo tiền đề vật chất cho xã hội. Góp phần bình ổn giá cả: Trong nền kinh tế thị trường, chú trọng phát triển lưu thông hàng hoá phải gắn với ổn định lưu thông tiền tệ. Các hình thức cho vay là một trong những cách để đưa tiền vào lưu thông và từ đó có thể kiểm soát được phần nào khối lượng tiền trong lưu thông nhằm làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hoá. Nếu hình thức cho vay phát huy được hiệu quả thì nó sẽ góp phần đảm bảo cho khối lượng tiền cung ứng phù hợp (vì khi cho vay là các tổ chức tín dụng đưa tiền vào lưu thông và khi thu nợ là rút tiền ra khỏi lưu thông). Vì vậy, các tổ chức tín dụng phải thực hiện điều tiết hoạt động tín dụng như: tỷ lệ dự trũ bắt buộc, hạn mức tín dụng...Nhờ các hình thức cho vay đó góp phần ổn định lưu thông tiền tệ làm khối lượng tiền tệ phù hợp với khối lượng hàng hoá lưu thông trong nền kinh tế nên giá cả hàng hóa dần dần ổn định. Góp phần ổn định đời sống xã hội, tạo công ăn việc làm, ổn định trật tự xã hội: Các hình thức cho vay chú trọng vào những lĩnh vực mới, cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất từ đó tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng lực sản xuất được nâng lên nên số lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ nhiều, đó là nguồn để tăng thu nhập của cán bộ trong xí nghiệp và góp phần ổn định đời sống cho chính họ. Mặt khác, tín dụng trung dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, làm cho cơ cấu nền kinh tế trở nên hợp lý, từ đó làm tiền đề cho sự ổn định và trật tự an toàn xã hội. Đối với doanh nghiệp: Nguồn vốn vay làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp: Trong môi trường kinh tế cạnh tranh các chủ thể kinh doanh luôn phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp để làm cho sản phẩm của mình tiêu thụ được nhanh, nhiều trên thị trường như: ứng dụng những thành tựu khoa học đổi mới công nghệ, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh, tìm kiếm thị trường mới... để tự nâng cao khả năng sản xuất của chính mình, làm cho các sản phẩm của bản thân doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường. Nhờ vậy mà doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển, nâng cao được uy tín và vị thế trên thị trường, thu hút được khách hàng, làm cho mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp được thực hiện dễ dàng hơn. Tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, chiếm lĩnh thị trường Khi được đầu tư, doanh nghiệp có cơ hội để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư để tăng thêm máy móc thiết bị cũng như dây truyền sản xuất mới nhằm tạo thêm nhiều sản phẩm có mẫu mã và chất lượng cao để cung ứng ra thị trường. Nhờ vậy sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường tin tưởng và chấp nhận, từ đó sản phẩm tiêu thụ được nhiều, dần dần chiếm được lũng tin và cảm tình của khách hàng làm cho sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường, mở rộng thị phần hoạt động, tạo tiền đề về vật chất cho doanh nghiệp. Đối với các tổ chức tín dụng: Hoạt động cho vay là hoạt động sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng. Qua sử dụng vốn đầu tư vào các dự án, các tổ chức tín dụng thu lãi do các doanh nghiệp trả. Từ phần lãi thu được, sau khi trừ đi các chi phí cần thiết khác như trả lãi vốn huy động, trả lương cho cán bộ công nhân viên, trích lập các quỹ…còn lại là lợi nhuận của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, khi các tổ chức tín dụng đầu tư tín dụng cho doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp mới, thường hoạt động gắn liền với tổ chức tín dụng, mỗi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều qua tổ chức tín dụng, nhờ vậy tổ chức tín dụng mở rộng thêm các loại hình tín dụng khác từ đó góp phần tăng thu nhập cho tổ chức tín dụng. Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng 1. Bồi dưỡng giáo dục phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ Hàng năm, cần tổ chức các đợt thi nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Qua đó, có chế độ khen thưởng, đề bạt kịp thời và chính xác nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng trau dồi nghiệp vụ, không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là thẩm định dự án đầu tư, thực hiện đúng qui trình nghiệp vụ cho vay, lựa chọn khách hàng hợp lý, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong đầu tư cho vay, chấp hành đúng thể lệ tín dụng, gắn trách nhiệm của cán bộ tín dụng với hiệu quả vốn vay. Bên cạnh đó tổ chức tín dụng cần chú trọng tới công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hướng dẫn cán bộ thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững kịp thời những biến động của khách hàng, từ đó có những cách thức đối phó cho phù hợp. 2. Xác định thời hạn trả nợ và cách thức tính lãi phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của dự án Việc xác định thời hạn trả nợ cũng như mức trả nợ cần tính toán sao cho phù hợp với tiến độ thi công cũng như khai thác của dự án. Tổ chức tín dụng cần xác định nguồn thu của khách hàng để trả nợ, đó chính là khấu hao thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của chính dự án. Thu nợ khách hàng cần căn cứ vào nguồn thu nhập của dự án, đồng thời nên tiến hành thu hồi nợ gốc tăng dần theo thời gian, như vậy phù hợp với quá trình vận hành kết quả đầu tư (giai đoạn đầu tư dự án chưa chạy hết công suất, giai đoạn tiếp theo là công suất tăng dần và đạt mức tối đa, cuối cùng công suất sẽ giảm dần và thanh lý). 3. Thu thập, đánh giá và xử lý thông tin để có những nhận thức chính xác về khách hàng, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. Thông tin chính xác sẽ giúp tổ chức tín dụng đánh gía khách hàng một cách toàn diện, chính xác, có thể thấy được những ưu nhược điểm của họ. Từ đó, tổ chức tín dụng có những kết luận đúng đắn về bản thân khách hàng. Thông tin đầy đủ nhiều chiều với độ tin cậy cao sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. 4. Thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng Thực hiện tốt các bảo đảm tín dụng của tổ chức tín dụng đối với các khách hàng vay vốn là biện pháp bắt buộc để ràng buộc trách nhiệm của người vay vốn với tổ chức tín dụng trong suốt quá trình sử dụng vốn tín dụng, từ đó góp phần đảm bảo an toàn nguồn vốn của tổ chức tín dụng. Vì vậy, tuy không phải là mục tiêu hàng đầu nhưng bảo đảm tín dụng là nội dung hết sức quan trọng của mục tiêu an toàn, chất lượng và hiệu quả tín dụng của tổ chức tín dụng. 5. Coi trọng công tác phòng ngừa, đồng thời xử lý nhanh chóng dứt điểm đối với nợ quá hạn. Nợ quá hạn là một vấn đề nhức nhối của mỗi tổ chức tín dụng, nên để xử lý vấn đề này, tổ chức tín dụng nên: Phòng ngừa các khoản cho vay dẫn đến nợ quá hạn. Có thể yêu cầu khách hàng cung cấp thêm các tài sản bảo đảm, để tăng cường an toàn cho nguồn vốn của tổ chức tín dụng trong trường hợp tài sản thế chấp bị giảm giá trị hoặc giá trị vật tư hàng hoá cấu tạo bằng nguồn vốn của tổ chức tín dụng. Trong một số trường hợp nếu thấy cần thiết tổ chức tín dụng có thể tiến hành gia hạn nợ cho khách hàng nhưng cần gắn thêm những biện pháp kinh tế thiết thực để đảm bảo chắc chắn thu hồi được nợ. Ngân hàng nên đưa ra mức lãi suất hợp lý để hấp dẫn người đầu tư. Mức lãi suất của ngân hàng phải nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư và tỷ suất lợi nhuận đó phải lớn hơn lãi suất đầu tư vào lĩnh vực tài chính. Có như vậy mới khuyến khích người đầu tư, vừa đảm bảo thu hồi được nợ, vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng và doanh nghiệp. 6. Tăng cường sự quản lí của Nhà nước đối với các doanh nghiệp Các tổ chức tín dụng chịu sự tác động rất lớn của chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy Nhà nước phải tăng cường sự quản lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh cũng như ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải có cơ chế, chính sách thích hợp, đồng bộ và kịp thời, xuất phát từ khâu quyết định tư cách pháp nhân đến quá trình hoạt động các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh cần phải rà soát tổng thể để sắp xếp lại theo xu hướng cổ phần hóa. Trong một doanh nghiệp vừa có cổ phần Nhà nước vừa có cổ phần của người lao động sẽ phát huy tinh thần làm chủ của người lao động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bổ sung nguồn vốn tự có thực có theo điều lệ và chấn chỉnh việc chấp hành pháp lệnh kế toán – thống kê một cách nghiêm ngặt, phản ánh chính xác, đầy đủ và kịp thời kết quả sản xuất kinh doanh và vốn liếng của mỗi đơn vị. 7. Tăng cường sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng có liên quan Hiện nay, một số nới chưa thấy được vai trò tín dụng là rất quan trọng của nền kinh tế, là nguồn vốn quan trọng, chủ động cho phát triển kinh tế.Vì thế, khi giải quyết vấn đề còn thiên lệch, nhất là xử lý thu hồi nợ để tái tạo nguồn vốn cho vay. Có thể khẳng định rằng hoạt động tín dụng luôn gắn bó chặt chẽ với phát triển kinh tế, không thể tách rời chúng, do vậy, cần có sự thống nhất quan điểm, tư tưởng và nhận thức của các ngành, các cấp. Các cơ quan chức năng như toà án, viện kiểm sát, công an, thi hành án, thanh tra Nhà nước cần có sự quan tâm hỗ trợ ngành tín dụng trong việc xử lý thu hồi nợ, nhất là cỏc khoản nợ mà người vay cố trây ỳ, trốn tránh trách nhiệm trả nợ và lừa đảo. Cần có những văn bản có tính chất liên ngành nhằm phối hợp, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tín dụng. Kết luận Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoàn thiện quá trình xã hội chủ nghĩa, vấn đề hoàn thiện các hình thức cho vay là một điều hết sức quan trọng. Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội thực hiện thành công sự nghiệp công nghiêp. hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn để phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế. Đây là nhiệm vụ hết sức to lớn của hệ thống ngân hàng. Trong những năm qua hệ thống ngân hàng nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, các hoạt động nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng đều tăng trưởng cao, huy động được một khối lượng lớn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng trong và ngoài nước không chỉ mang lại lợi nhuận cho hoạt động của ngân hàng mà còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tài liệu tham khảo Giáo trình luật Ngân hàng Việt Nam – Trường đại học Luật Hà Nội. Luật các tổ chức tín dụng 2004. Giáo trình tín dụng ngân hàng – Học viện tài chính. Quy trình nghiệp vụ cho vay – Ngân hàng Vietinbank. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ ngân hàng trong bước đầu đổi mới - tác giả Cao Sỹ Kiên. Các nghiệp vụ ngân hàng thương mại - tác giả Lê Văn Tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.doc