Tiểu luận Phân tích câu nói trong ngày kỉ niệm 105 năm ngày sinh Hồ Chủ Tịch: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH

 Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc đối với chúng ta là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia khác trên thế giới trên mọi lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, khoa học Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách vững chắc trong hội nhập kinh tê phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước.

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1966 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích câu nói trong ngày kỉ niệm 105 năm ngày sinh Hồ Chủ Tịch: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mác-Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách quan và hợp với quy luật”. Chủ nghĩa Mác-Lênin là bộ phận văn hoá đặc sắc nhất của nhân loại: tinh tuý nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất Hai là, Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ Nghĩa Mac-Lenin là tìm con đường giải phóng cho dân tộc. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lênin, “khi ấy ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo quần chúng: hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta.” Ba là, Người vận dụng Chủ Nghĩa Mac-lenin theo phương pháp mác-xít và theo tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. d)  Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh + Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. + Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu được các giá trị văn hoá nhân loại. + Bác có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bác Hồ từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người. 2. Phân tích nhận định Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau 30 năm ra đi tìm đu ờng cứu nước Người đã rút ra được nhiều bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ ngĩa xã hội, việc kết hợp phong trào yêu nước với phong trào công nhân chuyển hóa thành một sự kiện quan trọng. Năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt nam ra đời, đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc với giai cấp, quốc gia với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ đó chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang tiếp tục đi trên con đường của thế kỉ mới và cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức bóc lột và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do bình đẳng, bác ái đoàn kết ấm no, vì hòa bình hạnh phúc cho mọi người. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, là hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của nước ta. Cả cuộc đời của Người đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hoà thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhưng bên cạnh đó, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Người là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là ước nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” Thực hiện được ước nguyện đó, theo Người chính là nhằm giải quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân loại bị áp bức, bóc lột. Đó là điều trăn trở, ưu tư không chỉ ở Hồ Chí Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính là ở điểm này. Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến. Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người. Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.” Quan điểm đó của Người được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Hiện nay, mặc dù đã trải qua gần 80 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn phát huy trọn vẹn. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam trong thời đại ngày nay. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam. Đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới sáng tạo. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Trước hết là chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết, của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập tư do…chính sức mạnh đó được lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nêu rõ, muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải giúp lấy mình đã; và tự lực cánh sinh là một truyền thống quý báu của cách mạng nước ta. Hồ Chí Minh luôn xác định cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu và lực lượng tiến bộ của thế giới, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế là một trong những điều giúp ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Sức mạnh của Việt Nam là ở sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, là ở việc phát huy mọi nguồn lực của đất nước, đồng thời ở việc đoàn kết tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế. Đó cũng chính là cơ sở để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đoàn kết quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiêm vụ cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt thì phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình cái đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân pháp, Ngườ chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: Phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to thì tiếng mới lớn… Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời phóng viên nước ngoài, người nói: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Trong quan hệ giữa các đảng thộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách mạng Tháng Tám. Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư tưởng Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta và nhân dân ta. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo. Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ nhu cầu giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức và hành động, tổng kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng cộng sản và xây dựng Đảng trong điều kiện một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đặc điểm văn hóa truyền thống phương Đông. Những quan điểm này thật sự là sáng tạo riêng của HCM, góp phần cụ thể hóa và phát triển lý luận Mác- Lênin về Đảng cộng sản, làm cho Đảng thật sự trong sạch đạt đến tầm cao về đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử. Nhìn về lịch sử, đây là lần đầu tiên Đảng tiến hành công cuộc đổi mới một cách quy mô và toàn diện. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đây cũng là một việc làm chưa có tiền lệ trong lịch sử. Trước khủng hoảng sâu sắc của chủ nghĩa xã hội, mỗi đảng cách mạng đều tự mình tìm thấy con đường thoát ra khỏi khủng hoảng. Đường lối chung đều là vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lê-nin vào hoàn cảnh đặc thù của đất nước mình và mỗi đảng đều thu được những thành quả nhất định. Riêng Đảng ta, nhờ có tư tuởng Hồ Chí Minh (sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam) dẫn đường, và kế thừa truyền thống cải cách, đổi mới của ông cha, đã có được những bước đi vững chắc. Nay, qua hơn 20 năm đổi mới, việc tìm ra những bài học lịch sử trong kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới là một điều bổ ích. Trước hết, sinh thời, Bác Hồ ít dùng từ "đổi mới", nhưng trong thực tiễn thì tư duy và hành động cách mạng của Người mang nhiều ý nghĩa đổi mới. Năm 1911, khi ra đi cứu nước, Người đã không theo cách đi của cha anh là sang phương Đông tìm sự viện trợ ở "những người da vàng" phong kiến, tư sản, mà quyết đi sang phương Tây nhằm thấy rõ căn bệnh của chế độ "nô lệ thuộc địa" để tìm phương thuốc cứu chữa. Ở phương Tây, trong khi các bậc cha anh tìm sự cứu giúp của văn minh tư sản thì với Bác Hồ, khẩu hiệu "Tự do, bình đẳng, bác ái” tuy vẫn còn cuốn hút sự chú ý của Người, nhưng cái mà Nguyễn Ái Quốc say sưa tìm hiểu lại là "cái mới” của thời đại. Đó là lý luận cách mạng vô sản và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gắn với phong trào dân tộc thuộc địa. Gặp chủ nghĩa Mác - Lê nin, Nguyễn Ái Quốc nhạy cảm nắm bắt lấy cái mới. Đó là sự phát triển của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại cách mạng dân tộc và thuộc địa. Khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” của Mác đã được Lê-nin phát triển lên thành khẩu hiệu ''Vô sán toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”. Đọc Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của Lê nin, Nguyễn Ái Quốc đã “vui mừng đến phát khóc lên" vì thấy rõ: "Đây là con đường giải phóng chúng ta". Thực tiễn của cách mạng Việt Nam và thế giới đã cho Người thấy: Vô sản chính quốc phải cùng vô sản và nhân dân các thuộc địa trên toàn thế giới liên kết lại với nhau mới có thể diệt được "con đỉa” đế quốc chủ nghĩa "hai vòi”: một vòi hút máu các dân tộc thuộc địa, một vòi hút máu của vô sản chính quốc để tồn tại. Từ cái mới của tư duy, Nguyễn Ái Quốc đã có cái mới trong hành động. Năm 1919, Người đã cùng đại biểu các dân tộc thuộc địa gửi Yêu sách lên Hội nghị Véc-xây, yêu cầu các cường quốc phải quan tâm đến quyền lợi của các dân tộc thuộc địa. Rồi tháng 12-1930, tham dự Đại hội thành Tua của Đảng Cộng sản xã hội Pháp, Người đã biểu quyết tán thành Quốc tế cộng sản III, vì Quốc tế này coi trọng vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa. Trên đất Pháp, Nga đã hoạt động không mệt mỏi cho sự đoàn kết chiến đấu giữa vô sản chính quốc với vô sản thuộc địa. Khi về nước xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trương thành lập chính đảng của giai cấp công nhân từ ba yếu tố” Lý luận Mác- Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đưa "Phong trào yêu nước” vào thành một trong 3 yếu tố cấu thành chính đảng vô sản là một đổi mới ''sáng suốt” đến “táo bạo” khiến các nhà lãnh đạo Quốc tế cộng sản lúc bấy giờ đã cho Bác là một người dân tộc chủ nghĩa. Nhưng lịch sử đã chứng minh ''đổi mới” đó của Người là đúng đắn, là sáng tạo. Đến sự thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, ngay từ đầu, Chính cương và Sách lược vắn tắt do Người khởi thảo đã ghi rõ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không phải Đảng Cộng sản Đông Dương, mặc dầu lúc đó sự nghiệp giải phóng các dân tộc Đông Dương còn do Đảng lãnh đạo. Cái mới này của Người xuất phát từ thực tiễn lịch sử và cách mạng của ba dân tộc Việt, Miên, Lào trên bán đảo Đông Dương, mà cũng là sự thể hiện nghiêm túc nguyên tắc về "Quyền dân tộc tự quyết" chủ nghĩa Mác - Lênin. Đổi mới này không phải đã được chấp nhận ngay. Phải đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5- 1941) mới được trở thành hiện thực và ngày càng được lịch sử xác minh là đúng dằn. Tới cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám (1939-1945), tư duy đổi mới của Người lại tiếp tục được phát huy. Từ nhận thức về mục tiêu cách mạng là "cứu nước" (tức chỉ nhằm đánh những đế quốc xâm lược Việt Nam để giải phóng dân tộc) chứ không "phản đế" tức chống mọi đế quốc nói chung, Người đã "đổi mới" phương châm chiến lược và tổ chức cách mạng, lập “Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh” (gọi tắt là Việt Minh) thay cho Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương, tổ chức ra các đoàn thể công, nông, thanh, phụ... "cứu quốc" thay cho các đoàn thể "phản đế". Chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng có tính chất "ba thứ quân" của Người cũng đã bắt đầu được thực hiện. Đường lối “Từ khởi nghĩa từng phần tiến đến Tổng khởi nghĩa...” của Người cũng là cái mới trong lịch sử quân sự Việt Nam. Đặc biệt là ''Chương trình cứu nước" của Mặt trận Việt Minh do Người đề xướng đã nêu rõ: ''Thợ thuyền được hưởng luật lao động... gìa có lương hưu trí, cải thiện chế độ làm việc”; "Dân cày có đủ ruộng cày cấy, được, được cứu tế trong những năm mất mùa; tá điền, được giảm địa tô, chia lại công điền”; “Tư sản được tự do kinh doanh, được giúp đỡ trong việc mở mang các ngành kỹ nghệ cần thiết”; “Địa chủ thì: quyền sở hữu về ruộng đất vẫn được coi trọng, được khai phá đất hoang. Nhà buôn được tự do thông thương, sản nghiệp thương mại được pháp luật bênh vực...”... Có thể nói cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với tư duy và hành động đổi mới của Người. Công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay nhằm giải quyết khủng hoảng sâu sắc bắt đầu từ cuối thập niên 70 cũng là sự kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới mà Bác Hồ đã thực hiện. 3.Liên hệ thực tế hiện nay: Trong thực tế hiện nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu, tư tưởng, cương lĩnh hành động, niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam. Dưới Sự lãnh đạo của Đảng, sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra 5 bài học lớn. Bản lĩnh chính trị của Đảng là bài học thứ nhất: “trong quá trình đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập với chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, ứng dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Bởi vậy, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chính trị không thay đổi dù trong bất cứ giai đoạn nào, hoàn cảnh nào của cách mạng Việt Nam. Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay là tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản trong điều kiện mới. Độc lập dân tộc đối với chúng ta là sự vươn lên để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, khẳng định vị thế của Việt Nam bình đẳng với tất cả các quốc gia khác trên thế giới trên mọi lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, khoa học…Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh là điều kiện cơ bản để bảo vệ nền độc lập dân tộc một cách vững chắc trong hội nhập kinh tê phức tạp và đầy rẫy nguy cơ mất còn hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã sớm cảnh báo nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ ảnh hưởng không tốt tới an ninh quốc gia, chủ quyền dân tộc và nền độc lập của đất nước. - Về kinh tế: chuyển mạnh từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang phát riển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản chất đây là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kì tất yếu khách quan, nên Người chủ trương là sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng phải trải qua thời kì quá độ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kì xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về kinh tế thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần. Quan điểm này đã được nước ta thực hiện từ khởi sự đổi mới (1986) và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba chế độ sở hữu(toàn dân, tập thể, tư dân) hình thành nhiều hình thức sở hữu và năm thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng cùng nhau phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh. Ở đó nên kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Về văn hóa xã hội, con người: Đại hội X đã làm rõ và vận dụng đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng cơ bản và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với năm quan điểm chỉ đạo cơ bản mang tính chiến lược trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong thời kì quá độ. Đồng thời Đại hội X cũng xác định, phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội là một trong những nhiệm vụ lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa. Chúng ta cần ra sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối chính trị độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên – lực lượng giường cột của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cốt cách dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và cốt cách văn hóa dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu nền văn hóa dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở L

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25347.doc
Tài liệu liên quan