Tiểu luận Phân tích: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cuờng, đổi mới và sáng tạo

Sáng tạo là một quá trình, trong đó những cá nhân sáng tạo có tính nhạy cảm cao đối với một vấn đề mà người khác không có. Khi đứng trước những hoàn cảnh phức tạp, người có tính nhạy cảm cao sẽ biến những tình huống cực kỳ khó khăn thành vấn đề để giải quyết, từ đó cân nhắc, khám phá để tìm ra cách giải quyết. Sáng tạo là tạo ra cái mới. Hoạt động sáng tạo là vượt ra khỏi cái cũ, kinh nghiệm cũ. Sáng tạo là biểu hiện cao của đời sống nội tâm, của tâm hồn con người. Sáng tạo còn là sự lựa chọn những phương pháp mới, phương tiện mới với cách giải quyết mới.

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1701 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân tích: Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cuờng, đổi mới và sáng tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến một sự kiện trọng đại : năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng. Đảng ra đời khẳng định chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau. Để chứng minh cho những quan điểm của mình, con đường mà Đảng t lựa chọn, đó là : Độc lập dân tộc thực sự phải là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Độc lập dân tộc thực sự đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột và nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Do đó, độc lập gắn liền với tự do và bình đẳng, công việc nội bộ quốc gia - dân tộc phải do quốc gia - dân tộc đó giải quyết không có sự can thiệp từ bên ngoài. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là thực hiện triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra. Nhờ đó, nó xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện độc lập dân tộc để mở đường đưa dân tộc tới sự phát triển phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú đa dạng về văn hóa, tinh thần, sự thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới chân giá trị của nó ở chỗ nó hướng tới phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và cuộc sống tinh thần ngày càng phong phú. Chính điều đó làm cho nền tảng của sự độc lập tự chủ càng thêm vững chắc, khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc càng đầy đủ và mạnh mẽ. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trở thành hệ giá trị phát triển của Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, trong thời đại ngày nay. Đó cũng chính là cái lôgíc phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam, 71 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, làm nên cốt cách Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam và vị thế Việt Nam trước thế giới. Nhận thức và hành động theo sự lựa chọn và theo hệ giá trị đó, Đảng ta đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một điển hình trong các dân tộc thuộc địa, tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn toàn không cân sức với "hai đế quốc to", mở ra thời kỳ phi thực dân sau Việt Nam cho cả hệ thống thuộc địa và các nước phụ thuộc trên thế giới. Qua nửa thế kỷ giành và giữ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt 15 năm đổi mới, với hệ giá trị đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xứng đáng tiêu biểu cho bản lĩnh Việt Nam trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tỏ rõ tính độc lập tự chủ trong mọi đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại, đưa đời sống nhân dân lên ngày một cao hơn, đưa đất nước và dân tộc lên vị thế mới trong khu vực và thế giới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như thế, đối với Việt Nam ta, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị ấy - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, lư tưởng, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. II.NGƯỜI LÀ MẪU MỰC CỦA TINH THẦN ĐỘC LẬP TỰ CHỦ,TỰ LỰC ,TỰ CƯỜNG: Tư tưởng Hồ Chí Minh nêu rõ độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nêu rõ, muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải giúp lấy mình đã; và tự lực cánh sinh là một truyền thống quý báu của cách mạng nước ta. Từ khi giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh luôn xác định cách mạng Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với các trào lưu và lực lượng tiến bộ của thế giới, việc tăng cường các mối liên hệ và hợp tác quốc tế là một trong những điều giúp ta kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Sức mạnh của Việt Nam là ở sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, là ở việc phát huy mọi nguồn lực của đất nước, đồng thời ở việc đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác quốc tế. Đó cũng chính là cơ sở để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Quan niệm đoàn kết, hợp tác quốc tế là con đường hai chiều và trên cơ sở cùng có lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: mình đã hưởng cái hay của người thì phải có cái hay cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả. Sự nghiệp vẻ vang của nhân dân Việt Nam đóng góp vào thực hiện các mục tiêu chung của nhân dân tiến bộ thế giới. Người sớm nêu ra ý tưởng hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước. Ngay những năm đầu khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, Người đã khẳng định Việt Nam mong muốn thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, đón nhận đầu tư nước ngoài; mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế; hoan nghênh đầu tư nước ngoài để xây dựng lại Việt Nam và để tham gia "điều hòa kinh tế thế giới". Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tính chất thời đại và cuộc đấu tranh của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao chính nghĩa, đạo lý và nhân nghĩa trong quan hệ quốc tế. Người nêu rõ: Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Người thường nhắc nhở phải làm sao cho trong Đảng và trong nhân dân ta giữ được lòng yêu mến, biết ơn các nước bạn anh em, phấn đấu tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là "thiên kinh địa nghĩa" (điều vô cùng chính xác, không thể nghi ngờ). Trong điều kiện hiện nay khi diễn biến hòa bình trên nhiều quốc gia đang diễn biến phức tạp và Việt Nam cũng không là ngoại lệ thì Đảng và nhà nước ta cần phải có những chính sách hợp lý để giữ vững chủ quyền, bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời lại phải giữ vững mối quan hệ tôt với các quốc gia trên thế giới.Nếu như trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tư tưởng Hồ Chí Minh dựa trên sự kế thừa và học hỏi chủ nghĩa Mác – Lênin về tinh thần tự lực tự cường, nhân dân ta đã giữ vững được nền độc lập thì trong bối cảnh hiện nay nhằm giải quyết được những vấn đề về chủ quyền dân tộc như Hoàng Sa, Trường Sa và các tỉnh biên giới phía Bắc, Đảng và Nhà nước ta cần thực hiện tốt đoàn kết dân tộc gắn liền với việc phát huy sức mạnh của toàn dân; nêu cao tinh thần tự lực tự cường, lấy nhân dân làm gốc. “MTTQ Việt Nam phải củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, góp phần cùng các tổ chức Đảng tạo ra sự chuyển biến căn bản trong việc ngăn chặn, từng bước đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân”, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh như trên tại Đại hội lần thứ VII Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng trong Đại Hội VII, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: Mặt Trận Tổ Quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng được củng cố về tổ chức, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân; phối hợp với các ngành, các địa phương tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, Tổng Bí thư cũng lưu ý, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn còn nghiêm trọng. Một số nội dung trong chính sách xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được thực hiện đầy đủ. Công tác dân vận, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội còn có mặt chậm đổi mới, có biểu hiện hành chính hoá và hình thức chủ nghĩa. Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sâu sát cơ sở, nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo còn hạn chế.  Tổng Bí thư đề nghị MTTQ Việt Nam tập trung thực hiện tốt một số việc như: động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua, các cuộc vận động; nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thanh tra nhân dân; thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tổ chức và hướng dẫn nhân dân phát huy quyền làm chủ, chủ động và tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh… Đồng thời, Tổng Bí thư cũng khẳng định: muốn tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, trước hết Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với công tác Mặt trận theo yêu cầu của thời kỳ mới. Đây là một trong những điểm mấu chốt để Mặt trận tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về tự lực tự cường, Đảng và Nhà nước đã thực hiên rất nhiều chính sách để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nước ta đã liên tiếp gia nhập các tổ chức quốc tế, dần trở thành 1 trong những quốc gia đang phát triển có chỗ đứng và vị thế lớn trên thế giới. Nhưng không vì thế mà ta đánh mất đi bản sắc riêng của văn hóa dân tộc mình. Với chủ trương hòa nhập nhưng không hào tan Việt Nam đã 1 lúc thực hiện được nhiều mục tiêu đề ra. Ở thời điểm hiện tại thì Việt Nam đang là điểm đến lý tưởng của những nhà đầu tư nước ngoài. Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam đang là miếng mồi ngon với những nước phát triển; rất nhiều nước phát triển muốn biến Việt Nam thành sân sau của mình. Nhưng với chính sách ngoại dao mềm dẻo nhưng cương quyết, Nhà nước ta đã nhận được rất nhiều nguồn tài trợ từ nước ngoài nhưng không bị mất đi bản sắc văn hóa dân tộc. III.TINH THẦN ĐỔI MỚI VÀ SÁNG TẠO TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: Tinh thần đổi mới của Nguời: Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953, Người đã đưa ra luận điểm bất diệt: “Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả” . Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Và có thể nói quyết định chọn Pháp thay vì Nhật đã giúp người tiếp cận 1 cách hoàn hảo với chủ nghĩa Mác-Lênin, với chủ nghĩa xã hội, Người cũng không vì thế mà sao chép y nguyên chủ nghĩa Mac-Lênin để áp dụng cho thực tiễn Việt Nam. Người đã mang chủ nghĩa Mac-Lênin về với Việt Nam và áp dụng lên thực tiễn Việt Nam rất hợp lý và qua đó đã phát huy tối đa sức mạnh của con người Việt Nam. Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp, chứ không phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành. Đây là tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản chính quốc và giúp cho phong trào công nhân ở các nước chính quốc. Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về tình trạng giai cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, không thể chối cãi được". (Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam). Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới hết sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha hình thành và với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản quá độ trực tiếp lên CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế độ nô lệ, chế độ nông nô - N.H) không?". Có thể nói, những nhận thức nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi...". "Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi đến CHXH. Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát triển nền kinh tế 5 thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo). Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, chúng xứng đáng được mệnh đanh là một học thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. 2.Tinh thần sáng tạo của Người: Sáng tạo là một quá trình, trong đó những cá nhân sáng tạo có tính nhạy cảm cao đối với một vấn đề mà người khác không có. Khi đứng trước những hoàn cảnh phức tạp, người có tính nhạy cảm cao sẽ biến những tình huống cực kỳ khó khăn thành vấn đề để giải quyết, từ đó cân nhắc, khám phá để tìm ra cách giải quyết. Sáng tạo là tạo ra cái mới. Hoạt động sáng tạo là vượt ra khỏi cái cũ, kinh nghiệm cũ. Sáng tạo là biểu hiện cao của đời sống nội tâm, của tâm hồn con người. Sáng tạo còn là sự lựa chọn những phương pháp mới, phương tiện mới với cách giải quyết mới. Sáng tạo cách mạng khác với những hoạt động sáng tạo khác. Nó xuất hiện trong những tình huống cách mạng và có tác dụng to lớn làm thay đổi tình huống cách mạng. Sáng tạo cách mạng là sự thay đổi về chất phương pháp, phương thức và cách giải quyết các vấn đề cách mạng đặt ra. Đó là việc đưa ra chiến lược và sách lược cách mạng mới, cách biện giải hoàn toàn mới, phương pháp cách mạng mới. Sáng tạo cách mạng có vai trò to lớn thúc đẩy xã hội phát triển. Xuất phát từ cách hiểu bản chất khái niệm sáng tạo cách mạng như vậy, chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu những sáng tạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX chúng ta thấy, vị lãnh tụ của Đảng, của cách mạng Việt Nam luôn luôn thể hiện tinh thần của một nhà cách mạng sáng tạo. Dù ở đâu, vào thời điểm nào Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nắm vững bản chất các sự kiện và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, từ đó đưa ra chủ trương, giải pháp, cách ứng xử hợp lý nhất, sáng tạo nhất. Có nhiều tư liệu về cách ứng xử thông minh, tinh tế của Người, thể hiện một nhân cách sáng tạo cao cả. Bài viết này, chỉ khai thác và nhấn mạnh thêm một số hoạt động sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh có tác dụng tạo ra những chuyển biến cách mạng đối với dân tộc và thời đại. 2.1. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Vào cuối thế kỷ thứ XIX và những năm đấu thế kỷ XX, cả dân tộc Việt Nam bị đè nén bởi hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Không cam chịu làm nô lệ, nhân dân Việt Nam đã liên tiếp đứng lên chống bọn đế quốc thực dân nhưng không thành công. Các sĩ phu yêu nước đều trăn trở về con đường giải phóng dân tộc, nhưng chỉ có anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã hành động hết sức sáng tạo mang tính cách mạng. Được Phan Bội Châu định đưa sang Nhật để du học và để làm cách mạng, nhưng Nguyễn Tất Thành đã từ chối vì Anh nghĩ rằng, nhờ Nhật chống Pháp thì chẳng khác nào "đưa cọp cửa trước, rước beo cửa sau". Nguyễn Tất Thành cho rằng, cần phải tìm hiểu về thế giới, về nước Pháp trước khi lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc mình. Tháng 6- 1911, Nguyễn Tất Thành đã tâm sự: "Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, Tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta"l. Điều này thể hiện trí tuệ và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt của Anh. Trong tình thế cách mạng lúc đó, những con đường cách mạng, những phương pháp cũ như khởi nghĩa nông dân của Hoàng Hoa Thám, Đông du của Phan Bội Châu hay Đông kinh nghĩa thục của Lương Văn Can đều đi đến bế tắc, thì việc lựa chọn một con đường mới, độc đáo là một sáng tạo cách mạng. Trải qua gần l0 năm lăn lộn với cuộc sống khó khăn, với phong trào cách mạng các nước phương Tây, chịu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, người thanh niên yêu nước Nguyễn ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) mới tìm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin và nhận ra con đường tất yếu mà cách mạng Việt Nam phải đi để giải phóng cho dân tộc mình. Tháng 7- 1920, khi đọc "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, Nguyễn ái Quốc đã khẳng định con đường Cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng vô sản giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả quan trọng của tư duy sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn con đường cách mạng. Nó vượt ra khỏi tư duy chính trị của người Việt Nam đương thời và đến với ánh sáng của thời đại mới là chủ nghĩa Mác - Lênin. 2.2. Hồ Chí Minh tích cực tham gia phong trào cộng sản quốc tế trước khi tiến hành vận động phong trào cách mạng Việt Nam: Theo chúng tôi, đây cũng là một sự sáng tạo cách mạng của Người. Khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, chúng ta thấy nguyện vọng tha thiết nhất của Người là giải phóng dân tộc, nhưng không đi theo con đường đấu tranh cho độc lập dân tộc của các bậc tiền bối như Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, v.v. Mặt khác, trong khi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, Người đã tích cực tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tham gia ĐCS Pháp; tham gia các tổ chức chính trị, xã hội ở Pháp; viết báo, viết văn chống thực dân Pháp; tổ chức ra Hội liên hiệp thuộc địa; tham gia quốc tế nông dân; tham gia Ban phương Đông QTCS; dự Đại hội V QTCS; dự Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, v.v. Đây là nét đặc trưng của sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người đã nhận ra rằng, kẻ thù ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25620.doc
Tài liệu liên quan