Tiểu luận Phân tích vai trò của bảo hiểm xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội và biện pháp phát huy vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động

Mục lục

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận về BHXH

1.1 Tính tất yếu của BHXH. 2

1.1.1 Khái niệm BHXH 2

1.1.2 Tính tất yếu của BHXH 2

1.2 Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH và chế độ BHXH 3

1.2.1 Hình thức và đối tượng áp dụng BHXH 3

1.2.2 Chế độ BHXH. 4

1.3 Vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội 4

1.3.1 Vai trò của bảo hiểm 4

1.3.2 Vai trò của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội 5

1.3.2.1 Đối với người lao động 5

1.3.2.2 Đối với tổ chức sử dụng lao động 6

1.3.2.3 Đối với xã hội 6

Chương II: Thực trạng ngành BHXH Việt Nam hiện nay

2.1 Số lượng đối tượng tham gia, số thu cho quỹ có sự tăng trưởng hằng năm, song số lượng tham gia vẫn thấp, mức hưởng thấp và hiệu quả thấp. 7

2.1.1 Số lượng đối tượng tham gia, số thu cho quỹ có sự tăng trưởng hằng năm. 7

2.1.2 Số lượng tham gia vẫn thấp, mức hưởng thấp và hiệu quả thấp 9

2.2 Tình trạng nợ đọng quỹ bảo hiểm xã hội tiếp tục xảy ra xảy với số nợ ngày càng lớn và thời gian kéo dài. 11

2.3 Việc chấp hành chế độ báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố còn chưa nghiêm. 15

2.4 Cơ cấu dân số nước ta trong tương lai sẽ là dân số già, việc chi quỹ bảo hiểm hưu trí là số chi chiếm tỉ trọng cao nhất trong chi BHXH. 16

2.5 Một số nội dung chưa có hướng dẫn thực hiện trong Thông tư gây khó khăn trong thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. Một số nội dung về chi BHXH còn chưa đồng nhất với quy định của luật, một số hướng dẫn tính mức hưởng còn chưa phù hợp. 17

2.5.1 Một số nội dung chưa có hướng dẫn thực hiện trong Thông tư gây khó khăn trong thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. 17

2.5.2 Một số nội dung về chi BHXH còn chưa đồng nhất với quy định của luật, một số hướng dẫn tính mức hưởng còn chưa phù hợp. 18

Chương III: Giải pháp để phát huy vai trò của BHXH đối với nền kinh tế - xã hội nói chung và đối với người lao động nói riêng

3.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò BHXH đối với người lao động. 19

3.2 Đẩy mạnh công tác quản lý trong hệ thống BHXH và mạnh tay xử lý những trường hợp vi phạm quy định của Luật BHXH 20

3.3 Nghiêm chỉnh chấp hành chế độ báo cáo theo đúng quy định 21

3.4 Tăng mức đóng BHXH để ổn định nguồn quỹ 21

3.5 Củng cố và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật liên quan đến thực hiện cơ chế, chính sách của BHXH. 22

Kết luận 22

Tài liệu tham khảo

Mục lục 24

 

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 9645 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích vai trò của bảo hiểm xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội và biện pháp phát huy vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sách, tổ chức bộ máy quản lý. Đội ngũ quản lý BHXH đã trưởng thành nhanh chóng, quỹ bảo hiểm đã phát triển lớn mạnh. “Thành tựu của ngành BHXH chính là một thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước”. Từ trước năm 1961, do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh tế khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành mà mới chỉ là các chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính bảo hiểm. Tháng 1 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995. Điều lệ về chính sách BHXH mới đã mở rộng đối tượng áp dụng (Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo hiểm xã hội.) và có nhiều chính sách ưu đãi cho người tham gia. Ngoài chế độ BHXH băt buộc, chính phủ còn ban hành chế độ BHXH tự nguyện. Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Từ đó tới nay, số lượng người lao động tham gia BHXH đã phát triển rất lớn. Tình hình tham gia BHXH trong các năm gần đây được tổng hợp tại bảng sau: TÌNH HÌNH THAM GIA BHXH GIAI ĐOẠN 2008- 2010 ĐƠN VỊ TÍNH: ĐƠN VỊ, NGƯỜI, % TT LOẠI HÌNH QUẢN LÍ Năm 2008 ước năm 2009 Năm 2010 (dự kiến) Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG Số đơn vị Số người TỶ TRỌNG 1 2 3 4 5 6  7  8  9 10 11 A BẢO HIỂM XỂ HỘI BẮT BUỘC 166,826 8,539,467 179,020 9,101,040 199,379 9,655,400 1 HCSN, Đảng, ĐT, LLVT 61,801 3,128,209 36.6% 62,419 3,177,986 34.9% 63,040 3,210,000 37.6% 2 Ngoài công lập 4,987 119,033 1.4% 5,427 129,877 1.4% 5,905 135,000 1.6% 3 Xã, Phường, thị trấn 11,279 212,800 2.5% 11,335 221,015 2.4% 11,392 223,000 2.6% 4 Doanh nghiệp Nhà nước 8,180 1,315,102 15.4% 8,180 1,330,374 14.6% 8,180 1,335,000 15.6% 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 8,761 1,753,800 20.5% 9,637 1,963,550 21.6% 10,408 2,270,000 26.6% 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 63,102 1,951,153 22.8% 75,722 2,198,624 24.2% 89,352 2,395,000 28.0% 7 Hợp tác xã 8,618 56,935 0.7% 6,198 74,113 0.8% 10,997 81,600 1.0% 8 Lao động có thời hạn ở nước ngoài 98 2,435 0.03% 102 5,500 0.1% 105 5,800 0.07% B BẢO HIỂM XỂ HỘI TỰ NGUYỆN 6,110 34,669 118,000 C BẢO HIỂM THẤT NGIỆP 5,411,886 5,835,190 1 Hành chính sự nghiệp, Đảng, ĐT 64,200 2 Ngoài công lập 114,750 3 Xã, phường, thị trấn 4,460 4 Doanh nghiệp Nhà nước 1,268,250 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 2,043,000 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2,275,250 7 Hợp tác xã 65,280 - Lương tối thiểu 650,000 đồng NGUỒN: BÁO CÁO CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 2.1.2. Số lượng tham gia vẫn thấp, mức hưởng thấp và hiệu quả thấp. Việt Nam là nước đông dân, trong giai đoạn hiện nay, theo kết quả điều tra toàn bộ của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 được Tổng cục Thống kê công bố sáng 21.7.2010. Theo số liệu điều tra, từ năm 1999 - 2009, dân số Việt Nam tăng thêm 9,523 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952.000 người. Tính đến ngày 1.4.2009, tổng số dân của Việt Nam là 85.846.997 người. Tỉ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33,1% năm 1999 xuống còn 24,5% vào năm 2009. Ngược lại, tỉ trọng dân số trong nhóm tuổi 15-64 là nhóm tuổi chủ lực của lực lượng lao động tăng từ 61,1% lên 69,1%. Chính vì cơ cấu dân số thay đổi như vậy, nên cả nước đã có 43,9 triệu người trong độ tuổi lao động đang làm việc, chiếm 51,2% dân số; trong đó thành thị có 12,0 triệu lao động, nông thôn có 31,9 triệu lao động, tỉ trọng như vậy thì Việt Nam đang ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, vì đang có ưu thế rất lớn về lực lượng lao động, là lợi thế rất lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo dự tính của Tổng cục Thống kê thì cơ cấu này sẽ còn kéo dài từ 30 đến 50 năm nữa. Tuy nhiên, phần lớn công việc dành cho người lao động chất lượng còn thấp. Theo số liệu điều tra của ILO, năm 2007 có 23,8 triệu người có việc làm trong ngành này, chiếm khoảng 52% tổng số người có việc làm. So với những năm trước, lao động nông nghiệp đã có xu hướng giảm, tuy nhiên tính chất nông thôn và sự phụ thuộc nặng nề vào nông nghiệp phản ánh thị trường lao động Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ thiếu việc làm bền vững. Báo cáo của ILO còn phản ánh một thực trạng dẫn đến việc thiếu việc làm hiệu quả do nhóm lao động giản đơn hiện vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất. Năm 2007, nhóm lao động giản đơn là 28,1 triệu người, chiếm 62% tổng số người có việc làm. Ngoài ra trong xã hội còn có nhóm lao động “không được trả lương”, gồm những người làm việc cho nông trại hoặc công việc sản xuất kinh doanh của gia đình nhưng không nhận tiền công. Những người này thường là vợ, chồng hoặc con cái của người chủ/người điều hành công việc kinh doanh, nhưng cũng có thể là thành viên của một gia đình lớn như ông, bà, cháu, cô, dì, chú, bác. Năm 2007, nhóm này chiếm 42% tổng số người có việc làm. Nhìn nhận một cách khách quan thì hầu hết các những đối tượng lao động này không tham gia vào BHXH, nhất là đối với những lao động giản đơn, thời gian lao động ngắn và không cố định, không có ký kết hợp đồng lao động với chủ lao động, nên không thuộc vào đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc. Những người làm công tác xã hội lại chưa tận tình với công việc, không tích cực tham gia vào hoạt động tuyên truyền cho người lao động ở những nơi thông tin xã hội còn hạn chế, khiến cho nhiều người lao động có nguyện vọng được tham gia BHXH nhưng lại không biết phải làm như thế nào để có thể tham gia đóng và hưởng quỹ. Về mặt chủ quan thì do nhiều người lao động còn thiếu hiểu biết về vai trò của BHXH nên không tham gia đóng BHXH, tiêu cực hơn nữa đó là do thiếu hiểu biết về luật lao động mà đã vô tình làm mất quyền lợi của mình, để cho chủ lao động lợi dụng điều này để trốn tránh nhiệm vụ đối với người lao động. Vậy là một số lượng lớn lao động vô tình không được tham gia BHXH. Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Các vấn đề xã hội cho thấy, năm 2008 số tiền nợ, chậm đóng BHXH của các tổ chức, doanh nghiệp là trên 2.286 tỷ đồng, năm 2009 là 2.093 tỷ đồng. Nếu so sánh với số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập, đang hoạt động hiện nay là khoảng 260.000 doanh nghiệp (số liệu của Tổng cục Thống kê) với tổng số người hưởng lương khoảng 14 triệu người, thì số đối tượng chưa tham gia BHXH bắt buộc theo luật định còn rất lớn, khoảng 30%, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức và cá nhân kinh doanh có thuê mướn lao động. Một điều đáng nói là hiện nay quy định mới được ban hành của BHXH Việt Nam là người lao động tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp lần đầu phải nộp bản sao giấy khai sinh. Trong khi đó thì có rất nhiều lao động sinh trước năm 1975 không có hoặc đã thất lạc giấy khai sinh. Ngoài ra, một bộ phận không nhỏ người lao động sinh ra ở những vùng sâu không có điều kiện làm giấy khai sinh. Tất cả bộ phận này đều không có điều kiện được làm những công việc “chất lượng” và cũng không ít trong số đó không có được công việc đảm bảo lâu dài. Việc phải có giấy khai sinh khi tham gia BHXH dẫn đến không ít trở ngại cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động, đây là một quy định quá khắt khe, làm cho những đối tượng này không có cơ hội tham gia vào làm việc trong các doanh nghiệp có chế độ đóng BHXH, và cũng không có cơ hội tham gia đóng và hưởng chế độ BHXH mặc dù không ít ngườ có nguyện vọng. Về phía các doanh nghiệp có nhu cầu thuê lao động giá rẻ thì đây chính là một rào cản lớn. Theo nguồn tin thực tế thu thập được từ báo Tuổi Trẻ Online thì trưởng Ban quản lý các khu công nghiệp Tiền Giang, cho biết hiện các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Mỹ Tho và cụm công nghiệp Trung An cần gấp 2.000 lao động nhưng tuyển rất khó khăn. Nay lại vướng quy định giấy khai sinh nên nhiều doanh nghiệp “kêu trời” vì không dưới 30% người lao động xin việc không có hoặc bị thất lạc giấy khai sinh. Còn chủ tịch công đoàn Công ty ChingLhu (Long An), cho biết từ nay đến cuối năm công ty sẽ tuyển thêm 4.000 công nhân. Nếu buộc người lao động phải có giấy khai sinh mới tuyển có lẽ công ty chỉ tuyển được 50%. Đó là chưa kể phải cho thôi việc khoảng 700 LĐ đã tuyển trước đó. Chế độ bảo hiểm thất nghiệp còn khá mới mẻ với người lao động Việt Nam, do vậy, người lao động còn gặp khó khăn trong việc đăng ký đóng Bảo hiểm thất nghiệp, nhiều người có nhu cầu tham gia song do chưa nắm được luật nên khi đến đăng ký thất nghiệp với trung tâm thì không được vì nhiều trường hợp đã quá thời hạn. Không ít trường hợp bị ngưng trợ cấp thất nghiệp do không đến cơ quan đăng ký thất nghiệp để trình báo tình trạng tìm việc làm nên tự đánh mất đi quyền lợi. Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có thống kê đầu tiên về việc triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Theo đó, hiện đã có 3515 người lao động đến đăng ký thất nghiệp, trong đó có 592 người đã làm xong hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, chỉ có 298 người (chiếm hơn 8% số người đăng ký) được xác định đủ điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm này. BHXH tự nguyện tuy có hiệu lực thi hành từ năm 2008 nhưng lượng người tham gia cũng không nhiều, chỉ là hơn năm vạn người trong khoảng 30 triệu người thuộc diện tham gia. Song nguyên nhân chính khiến cho người lao động không mặn mà với việc tham gia BHXH đó là thời gian đóng BHXH dài mà mức hưởng thấp, thêm vào đó là hiệu quả mang lại không cao. Ví dụ về BHXH tự nguyện: mức đóng hằng tháng với BHXH tự nguyện bằng 16% mức thu nhập người lao động lựa chọn đóng BHXH, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%. Mức thu nhập làm cơ sở để tính đóng BHXH được thay đổi tuỳ theo khả năng của người lao động ở từng thời kỳ, nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung. Với mức đóng như vậy, đối với những người sống ở vùng nông thôn, đa phần là nông dân, người lao động có thu nhập thấp và không ổn định nên việc tham gia BHXH tự nguyện bằng cách chắt bóp thu nhập vốn ít ỏi hàng tháng của mình là rất khó khăn. Nếu mỗi tháng họ thu nhập được 1-2 triệu đồng thì số tiền đó dành cho chi tiêu hằng ngày đã là quá khó. Đó là chưa kể công việc bấp bênh, thu nhập không ổn định. Hơn nữa, mức đóng BHXH tự nguyện sẽ tăng dần thì nhiều người không chắc chắn mình có thể theo đuổi được mức đóng lũy tiến đó đến khi đạt đến mức 22% lương tối thiểu chung. 2.2. Tình trạng nợ đọng quỹ bảo hiểm xã hội tiếp tục xảy ra xảy với số nợ ngày càng lớn và thời gian kéo dài. Theo Luật Lao động thì người lao động được hưởng lương và chế độ BHXH theo quy định. “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH” (Điều 3, Luật BHXH). Thế nhưng quyền lợi cơ bản này của người lao động đang bị vi phạm nghiêm trọng do tình trạng nhiều doanh nghiệp chậm đóng BHXH cho người lao động và thậm chí nhiều doanh nghiệp còn tìm cách trốn đóng BHXH. Điều này gây thiệt hại trước hết là cho người lao động, và sau là cho toàn nền kinh tế - xã hội, không những vậy mà doanh nghiệp còn tự mình làm cho mối quan hệ giữa người lao động và mình ngày càng trở nên mâu thuẫn. Qua các năm, con số các doanh nghiệp nợ đọng quỹ BHXH ngày càng lớn và số tiền mà doanh nghiệp nợ quỹ BHXH cũng tăng tỉ lệ thuận với số doanh nghiệp, hơn nữa là thời gian nợ ngày càng kéo dài. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết trước hết xuất phát từ ý thức pháp luật và đạo đức yếu kém của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ muốn thu lợi nhuận tối đa, không quan tâm đến quyền lợi của người lao động, tìm cách trốn tránh, đối phó với cơ quan chức năng. Nhiều doanh nghiệp làm ăn phát đạt nhưng vẫn cố tình chây ỳ không đóng tiền BHXH. Nếu thực hiện chế độ BHXH, hàng tháng người lao động phải trích lại 8,5% lương để nộp BHXH, chủ sử dụng lao động nộp 20%. Khi trốn nộp BHXH, doanh nghiệp vừa không phải chi 20%, vừa chiếm luôn 8,5% lương của người lao động. Một số doanh nghiệp lại ra lí do kinh doanh, làm ăn khó khăn để trốn nộp BHXH cho người lao động. Có doanh nghiệp lương cán bộ quản lý lên tới vài chục triệu đồng/tháng, nhưng người lao động chỉ nhận được chừng 1,5-2 triệu đồng/tháng và cũng không hề được nộp BHXH, BHYT. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp lại phân biệt cán bộ trong biên chế và ngoài biên chế. Chỉ có cán bộ trong biên chế mới được hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Trong khi đó theo Luật Lao động, Luật BHXH không hề có sự phân biệt này.  Công tác thanh, kiểm tra chưa thường xuyên, chế tài xử lí chưa đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ luật Lao động và luật BHXH. Lực lượng Thanh tra lao động của các địa phương rất mỏng, mỗi năm chỉ tiến hành thanh tra được vài chục doanh nghiệp. Theo quy định, nếu người sử dụng lao động vi phạm luật BHXH sẽ bị xử phạt hành chính, và buộc phải nộp đủ, đúng số tiền còn thiếu theo quy định, cộng với tiền lãi ngân hàng số tiền nộp chậm. Nếu vi phạm với số lượng lớn, thời gian dài có thể bị khởi kiện tại toà án dân sự. Tuy nhiên, thủ tục khởi kiện tương đối phức tạp, và các doanh nghiệp thiếu hợp tác gây nhiều khó khăn. Không ít doanh nghiệp dù đã bị khởi kiện, đã có phán quyết của toà án nhưng vẫn cố tình chây ỳ không thực hiện. Ngày 13/12/2010, báo Người lao động Online có đăng bài viết có tiêu đề: Khổ với bảo hiểm xã hội. Bài viết đã nêu lên hai trường hợp mà qua đó ta nhận thấy phần nào nguyên nhân nợ gây nợ đọng BHXH và người lao động bị thiệt hại. Trường hợp thứ nhất - “Án đã tuyên nhưng không thi hành” : một số công nhân ngừng việc tại Công ty Cổ phần Chế biến thực phẩm Đông Phương (quận Tân Phú - TPHCM) đã gửi đơn đến các cơ quan chức năng đề nghị can thiệp để bảo vệ quyền lợi BHXH. Các CN này cho biết dù TAND quận Phú Nhuận - TPHCM đã tuyên buộc công ty phải làm thủ tục chốt, trả sổ BHXH cho họ nhưng hơn hai năm qua, Thi hành án Dân sự quận Phú Nhuận không thi hành bản án. Như vậy, người lao động lại là người chịu thiệt, và cũng nói lên thực trạng rằng luật pháp còn chưa đủ mạng để các doanh nghiệp chấp hành. Trường hợp thứ hai là cơ quan BHXH “bắt bí” người lao động: đó là vụ bà Lê Thị Bích Ngọc, nguyên là nhân viên Công ty TNHH Liên Việt Mỹ (quận 3 – TPHCM), khiếu nại cơ quan BHXH không làm thủ tục cho bà được hưởng lương hưu đầy đủ. Bà Ngọc làm việc cho công ty từ tháng 12-2004, hằng năm đều được tăng lương. Đến khi nhận trợ cấp hưu trí vào tháng 2-2010, bà Ngọc mới biết lương hưu của mình rất thấp bởi Công ty Liên Việt Mỹ không đóng BHXH đầy đủ cho bà Ngọc theo mức lương được điều chỉnh hằng năm. Bà Ngọc đã yêu cầu công ty làm thủ tục điều chỉnh mức đóng BHXH theo mức lương tăng hằng năm, nếu không sẽ khởi kiện công ty ra tòa.   Trước yêu cầu chính đáng trên, Công ty Liên Việt Mỹ đã có văn bản đề nghị BHXH quận 3 cho phép được tham gia BHXH cho bà Ngọc theo mức lương thực tế. Sau đó, Công ty Liên Việt Mỹ và bà Ngọc đã truy nộp tiền chênh lệch khi tham gia BHXH của bà Ngọc với số tiền gần 45 triệu đồng.  Lẽ ra đến đây bà Ngọc sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí đầy đủ tương ứng số tiền đã tham gia BHXH, nhưng lúc này, ông Nguyễn Đăng Tiến, Phó Giám đốc BHXH TPHCM, lại có văn bản cho rằng: “Việc đơn vị đề nghị nộp trước để giải quyết chế độ trước cho từng cá nhân là không đúng quy định quản lý quỹ BHXH”. Vì vậy, đến nay, bà Ngọc vẫn chưa được hưởng trợ cấp hưu trí đầy đủ. Sự việc cho thấy, người lao động không hề có lỗi mà lỗi là do chủ sử dụng lao động không chấp hành luật, khi doanh nghiệp đã giải quyết cho người lao động thì cơ quan bảo hiểm lại không nhanh chóng giải quyết mà làm khó cho người lao động, cuối cùng thì vẫn là “quýt làm cam chịu”. Tổ chức Công đoàn của nhiều doanh nghiệp thiếu tính độc lập, chưa trở thành chỗ dựa tin cậy của người lao động. Bên cạnh đó, rất nhiều DN chưa có tổ chức Công đoàn, thậm chí Giám đốc kiêm luôn cả chức vụ Chủ tịch Công đoàn. Vì vậy, khi người lao động bị thiệt thòi không có tổ chức đứng ra bảo vệ. Mặt khác, nhận thức về pháp luật lao động của người lao động còn rất nhiều hạn chế. Một số lao động không muốn tham gia tổ chức Công đoàn, không muốn trích nộp BHXH vì sợ thu nhập bị giảm đi. Hoặc người lao động không dám đấu tranh do tâm lí sợ bị trù dập, đuổi việc. Theo số liệu của BHXH Nghệ An, mặc dù đã dùng nhiều biện pháp, nhưng đến tháng 10/2010, tổng số tiền BHXH các doanh nghiệp còn nợ lên đến gần 80 tỷ đồng. Hiện có 42 doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT, BH tự nguyện trên 3 tháng với tổng số tiền lên tới hơn 22 tỷ đồng. Trong đó có những doanh nghiệp nợ từ 20 đến 50 tháng, với số tiền hơn 2 tỷ đồng. Đơn cử như CT Nạo vét đường biển 2 nợ 21,2 tháng với số tiền hơn 2,9 tỷ đồng, CT CP Đầu tư và Xây dựng 24 nợ 13,2 tháng với hơn 2,7 tỷ đồng, CT Công trình giao thông miền Trung nợ 48 tháng với gần 1,9 tỷ đồng… Cá biệt có CT CP Công nghiệp ô tô Trường Sơn nợ đến hơn 176 tháng với hơn 1,48 tỷ đồng. Bên cạnh đó, để trốn tránh nộp BHXH, các doanh nghiệp còn lách luật bằng cách không kí kết hợp đồng, hoặc kí kết hợp đồng ngắn hạn (dưới 3 tháng). Các công trình xây dựng thường huy động lao động thời vụ, hầu hết không có hợp đồng. Một số công trình xây dựng kéo dài hàng năm, doanh nghiệp chỉ bảo đảm chế độ BHXH đối với lãnh đạo, kĩ sư, còn hầu hết người lao động không được đóng BHXH. Nếu chẳng may có rủi ro, người lao động chỉ được chủ doanh nghiệp đền bù theo thoả thuận.  Tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH xảy ra nhiều nhất là ở doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm cho hàng vạn công nhân, lao động bị thiệt thòi, mất quyền lợi. Hầu hết, các doanh nghiệp chỉ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo mức lương tượng trưng ký trên hợp đồng lao động. Dưới đây là số liệu về tình hình chậm đóng, nợ đọng BHXH năm 2008, 2009: TÌNH HÌNH CHẬM ĐÓNG, NỢ ĐÓNG BHXH 2008- 2009 Đơn vị: Tỷ đồng STT Đối tượng Năm 2008 Tỷ lệ (%) Năm 2009 Tỷ lệ (%) A BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 2.286,2 2.093,7 1 Hành chính sự nghiệp, Đảng, ĐT, LLVT 125,3 5,48 77,0 3,68 2 Ngoài công lập 12,6 0,55 11,5 0,55 3 Xã, phường, thị trấn 20,7 0,91 14,0 0,67 4 Doanh nghiệp nhà nước 465,7 20,37 382,0 18,25 5 Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 724,7 31,70 690,0 32,96 6 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 926,3 40,52 910,0 43,46 7 Hợp tác xã 8,2 0,36 7,0 0,33 8 Lao động có thời hạn ở nước ngoài 1,0 0,04 0,7 0,03 9 Đối tượng khác 1,7 0,07 1,5 0,07 B BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 55,4 TỔNG CỘNG 2.286,2 2.149,1 NGUỒN: BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 2.3. Việc chấp hành chế độ báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố còn chưa nghiêm. Báo các là công việc rất quan trọng, giúp cho nhà quản lý có thể nắm bắt được tình hình công việc đang diễn ra, qua đó các dữ liệu báo cáo mà có thể tổng hợp, phân tích và đưa ra được phương án kinh doanh phù hợp và kịp thời. Trong lĩnh vực BHXH cũng vậy, chế độ báo cáo về tình hình tham gia, việc thu – chi quỹ và tình hình hoạt động của BHXH tại mỗi địa phương đến cơ quan quản lý cấp trên một cách kịp thời và đầy đủ là cách tốt nhất để có phương án đầu tư quỹ hợp lý, kịp thời chi trả tiền BHXH cho người lao động, đồng thời nhanh chóng có biện pháp xử lý những trường hợp chậm đóng quỹ… Tuy nhiên, do công tác quản lý còn gặp nhiều khó khăn và trình độ chuyên môn chưa cao, thêm vào đó là còn một số địa phương chưa có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, việc chấp hành chế độ báo cáo và chất lượng báo cáo của BHXH các tỉnh, thành phố còn chưa nghiêm. Theo “công văn 2136” đến thời điểm tháng 5 năm 2001, đã chậm hơn 1 tháng so với quy định, vẫn còn 16 tỉnh chưa nộp báo cáo quý I/2010 là: Bắc Giang, Bắc Ninh, Cà Mau, Đồng Nai, Hà Nam, Hà Tĩnh, Khánh Hòa, Nghệ An, Ninh Bình, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái. Số liệu báo cáo còn thiếu chính xác, số đối tượng tham gia BHXH, BHYT chưa được các tỉnh quan tâm, chưa báo cáo đủ số đối tượng tham gia đã được cấp thẻ BHYT, làm ảnh hưởng tới việc tổng hợp số liệu và phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của BHXH Việt Nam. 2.4. Cơ cấu dân số nước ta trong tương lai sẽ là dân số già, việc chi quỹ bảo hiểm hưu trí là số chi chiếm tỉ trọng cao nhất trong chi BHXH. Tuy hiện nay dân số nước ta đang đạt mức cơ cấu dân số vàng, và tình trạng này sẽ duy trì được trong khoảng ba đến năm thập niên, nhưng sau đó thì cơ cấu dân số sẽ già hóa, tỷ lệ người hết độ tuổi lao động sẽ tăng cao, số lao động về hưu lớn, đòi hỏi nguồn quỹ chi cho BH hưu trí rất lớn. Mức lương hưu hiện giờ có thể đang thấp, không đảm bảo đủ đời sống nhưng thực tế trong mấy năm trở lại đây tỷ lệ tăng lương hưu quá nhanh. Ví dụ, đầu năm 2008 lương hưu tăng 20%, tới tháng 10.2008 lương hưu tăng tiếp 15%, tới tháng 5.2009 lại tăng tiếp 5% nữa. Nếu vẫn giữ mức tăng lương hưu thế này mà không có giải pháp tăng đóng, chắc chắn quỹ hưu trí sẽ nhanh chóng bị mất cân đối. Tại nước ta hiện nay mức hưởng lương hưu tới 75% mức lương đóng bảo hiểm xã hội, là tỷ lệ cao nhất thế giới. Một vấn đề lo lắng là an toàn của quỹ bảo hiểm xã hội. Hiện tỷ lệ người đóng bảo hiểm xã hội cho một người hưởng lương hưu giảm dần, năm 2000 là 34/1, năm 2002 là 23/1 và năm 2004 là 19/1. Đóng ít, hưởng chế độ thời gian dài dẫn đến quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn (thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất) chỉ đủ khả năng cân đối thu chi đến năm 2019, từ 2020 trở đi quỹ sẽ phá sản vì chi nhiều hơn thu. Việc thu quỹ bảo hiểm hưu trí có tăng qua các năm do lượng lao động tăng, đồng thời chi quỹ cũng tăng lên nhưng tăng mạnh hơn so với nguồn thu do mức lương hưu tăng, điều này được chứng minh qua bảng Thống kê của BHXH Việt Nam về quản lý và sử dụng quỹ BHXH: TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG QUỸ BHXH 2008-2009 Đơn vị: tỷ đồng STT CHỈ TIÊU Năm 2008 Ước thực hiện năm 2009 A TỔNG THU BHXH 1 Thu đóng góp của người lao động và người SDLĐ 30.821,014 39.873,588 1.1 Thu quỹ ốm đau và thai sản 4.390,500 5.551,704 1.2 Thu quỹ TNLĐ- BNN 1.540,514 1.850,568 1.3 Thu quỹ hưu trí, tử tuất 24.879,200 29.609,134 1.4 THU QUỸ BHXH TỰ NGUYỆN 10,800 65,582 1.5 THU QUỸ BẢO HIỂM XÚ HỘI THẤT NGHIỆP (CẢ HỖ TRỢ NSNN) 2.796,600 2 Thu lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH 8.987,390 8.407,602 3 THU TỪ NSNN CHUYỂN SANG CHI TRẢ TRỢ CẤP 23.719,398 26.464,866 4 Thu khác (lãi phạt chậm đóng BHXH) 129,139 134,600 B TỔNG CHI BHXH I Chi trả các chế độ 44.870,742 57.828,471 1 Chi nguồn NSNN đảm bảo 23.510,793 26.673,471 2 Chi từ nguồn quỹ đảm bảo 21.359,949 31.155,000 2.1 Chi quỹ ốm đau và thai sản 2.979,111 4.791,000 2.2 Chi quỹ TNLĐ- BNN 144,948 160,000 2.3 Chi quỹ hưu trí, tử tuất 18.235,887 26.203,797 2.4 CHI QUỸ BHXH TỰ NGUYỆN 0,003 0,203 NGUỒN: BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 2.5. Một số nội dung chưa có hướng dẫn thực hiện trong Thông tư gây khó khăn trong thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. Một số nội dung về chi BHXH còn chưa đồng nhất với quy định của luật, một số hướng dẫn tính mức hưởng còn chưa phù hợp. 2.5.1. Một số nội dung chưa có hướng dẫn thực hiện trong Thông tư gây khó khăn trong thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động. Để thi hành chính xác theo quy định của Luật BHXH, thực hiện các chế độ BHXH một cách nhanh chóng, nhất quán, khoa học và đúng luật thì ngoài Luật BHXH ra, Chính phủ còn ban hành kèm theo các Nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện các chế độ. Tuy nhiên, có những trường hợp nội dung hướng dẫn chưa phù hợp với quy định của Luật như: khoản 6 Mục II Thông tư 03, hướng dẫn: Trong thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ thai sản nếu không hưởng tiền lương, tiền công tháng thì người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH và thời gian này được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Như vậy lao động nữ sinh con, nếu đi làm sớm hưởng lương thì vẫn phải đóng BHXH cho các tháng đi làm sớm, trong khi trợ cấp thai sản vẫn hưởng đến khi hết thời hạn quy định. Nội dung này không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật BHXH "Ngoài tiền lương, tiền công của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định...". Như vậy, những người có trách nhiệm trực tiếp giải quyết chế độ BHXH không biết sẽ phải làm thế nào trong những trường hợp tương tự thế này... Một số trường hợp chưa đưa ra hướng dẫn thực hiện, gây khó khăn trong thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động, các địa phương đôi khi có hướng giải quyết nhưng do không có hướng dẫn chỉ đạo, nên cũng hoang mang không dám tự ý thực hiện, một số trường hợp cụ thể đó là: + Trường hợp người lao động nghỉ việc đi khám, chữa bệnh tại nước ngoài; + Về thời gian nghỉ và tính đóng BHXH đối vớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTiểu luận lý thuyết bảo hiểm - Phân tích vai trò của Bảo hiểm xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội Biện pháp phát huy vai trò của Bảo hiểm xã hội .doc
Tài liệu liên quan