Tiểu luận Pháp luật môi trường Việt Nam liên quan đến quản lý chất thải

Mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại là bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nườ về môi trường: quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như môi trường sống. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí nghiệp, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể.

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7283 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Pháp luật môi trường Việt Nam liên quan đến quản lý chất thải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ngày càng được hoàn thiện, thể hiện những ưu điểm nổi bật, góp phần quan trọng cho công cuộc bảo vệ môi trường ở nước ta gắn liền với việc phát triển kinh tế và phù hợp với công cuộc hội nhập hiện nay. Các quy định pháp luật về chất thải rắn thông thường Thứ nhất, pháp luật đã xác định được các khái niệm làm cơ sở cho hoạt động quản lý chất thải rắn thông thường. Hiện nay, pháp luật đã quy định rõ các khái niệm về các hoạt động với tính chất là một bộ phận của quản lý chất thải rắn thông thường như: thu gom chất thải rắn, vận chuyển chất thải rắn, xử lý chất thải rắn chủ nguồn thải, chủ xử lý chất thải rắn, cơ sở quản lý chất thải rắn … ( Điều 3 Nghị định 59/ NĐ – CP ngày 09/04/2007). Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng những khái niệm pháp lý liên quan đến quản lý chât thải rắn thông thường về cơ bản đã phản ánh đúng bản chất của quá trình quản lý chất thải, tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường nói riêng, nhận thức rõ giới hạn phạm vi hoạt động của mình qua đó góp phần bảo đảm hiệu quả công tác quản lý Thứ hai, các quy định quản lý chất thải rắn thông thường đã kết hợp một cách hợp lý yêu cầu bảo vệ môi trường với việc tân dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường. Bên cạnh những đặc tính có thể gây ảnh hưởng tới môi trường thì chất thải rắn thông thường cũng chứa đựng những giá trị kinh tế nhất định mà nếu con người biết tận dụng để tái chế, tái sử dụng một cách hợp lý thì chẳng những vừa góp phần bảo vệ môi trường tích cực mà còn góp phần đem lại lợi ích kinh tế đáng kể cho đời sống con người, ví dụ như việc tân dụng phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế chất thải thành phân bón hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp…Trong quá trình xây dựng pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường, nhà làm luật đã phản ánh khá đầy đủ các yêu cầu về sự kết hợp giữa bảo vệ môi trường với tận dụng các lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường trong quá trình quản lý chất thải này, nội dung này được thể hiện ở chỗ: - Nhà nước khuyến khích việc tái chế, tái sử dụng chất thải. Một trong những chính sách của Nhà nước về BVMT hiện nay là “đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải” ( Khoản 3 Điều 5 Luật BVMT 2005 ) đồng thời khuyến khích việc “tái chế sử dụng chất thải” ( Khoảng 5 Điều 6 Luật BVMT 2005). Mặt khác, trong chính sách ưu đãi, hỗ trợ đất đai cũng như chính sách miễn giẩm thuế, phí đối với các hoạt động BVMT thì hoạt động tái chế chất thải rắn thông thường luôn được coi là một họat động nằm trong danh mục được ưu đãi, hỗ trợ ( Điều 117 Luật BVMT 2005 ). Chính những sự khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ này của Nhà nước sẽ góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tích cực thực hiện các họat động tái chế chất thải nhằm tận dụng tối đa lợi ích kinh tế của chất thải rắn thông thường. - Nhà nước cho phép nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất kinh doanh. Hiện nay trong QĐ số 12 ngày 8/9/2006 Bộ trưởng Bộ tài nguyên môi trường quy định khá rõ ràng các loại phế liệu được phép nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, đi kèm với quyền được nhập khẩu phế liệu để phục vụ sản xuất thì các chủ nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện khắt khe khác như phải có đủ năng lực để xử lý chất thải đi kèm, có hệ thống cơ sở hạ tầng phù hợp để bảo đảm quá trình nhập khẩu phế liệu không gây ô nhiễm môi trường, phế liệu nhập khẩu phải đáp ứng các điều kiện nhất định về môi trường … Chính những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu giá rẻ để phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời phải biết kết hợp đáp ứng đúng các yêu cầu BVMT cụ thể vì lợi ích chung của cộng đồng. Thứ ba, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã góp phần xã hội hóa công tác quản lý chất thải rắn thông thường. Chất thải rắn thông thường là loại chất thải phổ biến trong đời sống con người với nguồn thải đa dạng ở nhiều nơi, mọi lúc, khối lượng nhiều nhưng có sự khác biệt lớn về mức thải của các nguồn thải khác nhau. Bên cạnh đó đây là loại chất thải không chứa những đặc tính nguy hại nên các chủ thể tham gia quản lý loại chất thải này có thể phong phú, không bị giớ hạn bởi các điều kiện khắt khe mà vẫn có thể quản lý hiệu quả. Do vậy, việc xã hội hóa quản lý chất thải cầu khách quan, bảo đảm cho quản lý chất thải rắn thông thường đạt hiệu quả. Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường đã tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho các đoàn thể và các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình quản lý chất thải rắn thông thường với các haọt động khác như: Tổ chức cá nhân có thể đầu tư cho công tác thu gom vận chuyển, xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn bằng cách đầu tư xây dựng toàn bộ các hạng mục công trình thuộc cơ sở xử lý chất thải rắn, mua sắm trang thiết bị vật tư phục vụ cho hoạt động xử lý chất thải rắn, thành lập các hợp tác xã, hộ kinh doanh hoặc các hình thức khác để thực hiện việc thu gom, vân chuyển xử lý chất thải rắn ở các làng nghề, điểm dân cư nông thôn chưa có dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn ( Điều 13 NĐ 59/NĐ – CP 09/04/2007) Mọi tổ chức các nhân là chủ nguồn thải chất thải rắn thông thường đều phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định để quản lý chất thải này ( Điều 22 Nghị định 59/ NĐ – CP ngày 09/ 05/2007) Các tổ chức đoàn thể, cộng đồng dân cư có trách nhiệm giám sát quá trình thu gom, vận chuyển chất thải rắn trên địa bàn của mình, có trách nhiệm phát hiện ngăn chặn hoặc thông báo kịp thời cho chính quyền địa phương những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý chất thảo rắn ( Khoản 2 Điều 28, Khoản 3 Điều 38 Nghị định 59/NĐ – CP ngày 09/04/2007). Những quy định nói trên đã góp phần quan trọng trong lĩnh vực xã hội hóa công tác quản lý chất thải rắn thông thường, thu hút được nhiều nguồn lực tham gia công tác quản lý loại chất thải này, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải nói riêng, công tác BVMT nói chung. Thứ năm, các quy định về quản lý chất thải rắn thông thường đã tạo tiền đề thu hút các nguồn đầu tư cho công tác quản lý chất thải rắn thông thường. Quản lý chất thải rắn thông thường đòi hỏi phải thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và có sự đầu tư đúng mức về nguồn tìa chính cũng như các trang thiết bị khoa học kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả của hoạt động này. Hiện nay, pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường ở Việt Nam đã quy định khá rõ ràng các nội dung về đầu tư quản lý chất thải rắn. Những nội dung này thể hiện khá rõ trong nghị định 59/2007 về quản lý chất thải rắn. Nhà nước khuyến khích mọi hình thức đầu tư cho lĩnh quản lý chất thải rắn, hợp đồng hợp tác kinh doan ( BCC), xây dựng – khai thác chuyển giao ( BOT), hoạt động xây dựng – chuyển giao – khai thác ( BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao ( BT), mua lại doah nghiệp, mua trai phiếu đầu tư chứng khoán và các hình thức đầu tư khác theo Luật Đầu tư: đầu tư cho thu gom, vận chuyển, xây dựng trạm trung chuyển và cơ sở xử lý chất thải rắn được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư và xây dựng. Mặt khác, pháp luật cũng quy định rõ các nội dung của đầu tư quản ly chất thải rắn như đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn, đầu tư cho hoạt động thu gom, vận chuyển chất thải rắn; xã hội hóa việc đầu tư quản lý chất thải rắn … Đồng thời, pháp luật cũng xác định các nguồn đầu tư và ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn… Những quy định này là hết sức quan trọng và cần thiêt, tạo điều kiện cho việc phát triển cơ sở sản xuất – kỹ thuật để quản lý chất thải rắn, qua đó góp phần bảo đảm tính hiệu quả, tính khả thi của hoạt động quản lý chất thải rắn nói chung, chất thải rắn thông thường nói riêng. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại Mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại là bảo vệ môi trường và sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nườ về môi trường: quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như môi trường sống. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí nghiệp, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể.. Biện pháp kinh tế: Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc bắt buộc các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý chất thải. Biện pháp này thực hiện thông qua hình thức thu phí chất thải đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế lượng chất thải có thể phát sinh ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe con người ở mức độ cao. Đó còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường, ... Biện pháp kinh tế rất cần thiết và có hiệu quả phòng ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp. Biện pháp khoa học công nghệ: Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ tiên tiến vào việc quản lý chất thải. Biện pháp này giúp hạn chế được lượng chất thải, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt để chất thải. Các quy định của pháp luật ngày càng rõ ràng và cụ thể đã làm cho người dân hiểu pháp luật, nâng cao ý thức của họ. Người dân sẽ tự giác thực hiện những hành vi có ích cho môi trường. Tác động tiêu cực Pháp luật bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tế. Trong khi các nước phương Tây đã có những tiêu chuẩn môi trường cao thì Việt Nam vì mục đích thu hút đầu tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh đã đưa ra tiêu chuẩn môi trường thấp. Điều này gây ra sự ô nhiễm môi trường trầm trọng sau hơn 20 năm đổi mới và Việt Nam đang đứng trước nguy cơ trở thành bãi rác của thế giới. Với tiêu chuẩn môi trường thấp thì công nghệ lạc hậu tiếp tục được nhập vào Việt Nam và đẩy chất lượng hàng hoá Việt Nam vào thế bất lợi so với hàng hoá các nước sử dụng công nghệ hiện đại. Do đó, nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường cũng góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá của Việt Nam để có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới. Thứ nhất, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy định về bảo vệ môi trường. Yếu tố môi trường chưa thực sự được coi trọng và tính đến nhiều trong quá trình xây dựng và ban hành luật như các vấn đề về thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế bởi những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế còn chưa tính đến chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác bảo vệ môi trường không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân thiện với môi trường”. Thứ hai, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, các biện pháp chế tài nói chung chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn de những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức, các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để. Thứ ba, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Vì vậy, mặc dù Điều 183 Bộ luật hình sự năm 1999 có quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng khó có thể thực hiện trong thực tiễn được vì chưa bị xử lý vi phạm hành chính... Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp. Thứ tư, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung, thiếu cụ thể, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường. Hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải thông thường Thứ nhất, các khái niệm về quản lý chất thải được sử dụng trong các văn bản không thống nhất. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thỉa loại chất thải (Khoản 12 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2005). Trong nghị định 59/2007/ NĐ- CP lại định nghĩa: “Hoạt động quản lý chất thải rắn bao gồm các quy hoạch quản lý , đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động đối với môi trường và sức khỏe con người” (Khoản 2 Điều 3 Nghị định 59/2007/ NĐ- CP ngày 9/4/2007). Như vậy, hai khái niệm trên có sự không thống nhất với nhau. Chúng ta đều biết quản lý chất thải rắn là một bộ phận của quản lý chất thải nói chung, song trong quản lý chất thải nói chung không có hoạt động quy hoạch quản lý, đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải, nhưng quản lý chất thải rắn đã mở rộng thêm hai hoạt động này, sự mở rộng khái niệm đó là hiệu quả và cần thiết, nó xác định nhữn hoạt động cần thiết gắn liền với hoạt động trực tiếp quản lý chất thải, góp phần đảm bảo hiệu quả của hoạt động này. Như vậy, chúng ta vẫn chưa có quy định một cách cụ thể thế nào là chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại, cho nên hầu hết các quan điểm chung cho rằng chất thải rắn thông thường là chất thải rắn không nguy hại. Thứ hai, pháp luật chưa có quy định cụ thể về phân loại các nhóm đối tượng thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường. Trong thực tế các chủ thể tham gia thu gom, vận chuyển chất thải rắn rất đa dạng, song có thể chia thành hai nhóm chính đó là: Nhóm các cơ sở kinh doanh, dịch vụ thực hiện chức năng vận chuyển với quy mô lớn, mang tính chuyên nghiệp, (ví dụ như: Công ty môi trường đô thị, các hợp tác xã dịc vụ về môi trường) và nhóm thứ hai là các cá nhân thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, mang tính tự phát, quy mô nhỏ, và không chuyên nghiệp (ví dụ như cá nhân thu mua ve chai). Rõ ràng hai nhóm đối tượng trên khác nhau rất lớn về quy mô và phương thức hoạt động trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường, đồng thời mức độ, hoàn cảnh và khả năng ảnh hưởng tới môi trường trong quá trình hoạt động của hai nhóm này là rất khác nhau. Song hiện nay, pháp luật chưa có sự phân loại cụ thể của hai nhóm này, dẫn đến các quy định về bảo vệ môi trường trong thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường là chung chung, khó áp dụng cho từng đối tượng hoặc áp dụng cho cả hai đối tượng này, dẫn đến có nhiều bất cập. Thứ ba, pháp luật chưa có quy định chi tiết về các điều kiện đối với cơ sở tái chế, tiêu hủy, khu chôn lấp chất thải rắn thông thường, dẫn đến thiếu căn cứ để cơ quan có thẩm quyền xử lý các cơ sở này trong một số trường hợp nhất định. Ví dụ tại điểm 3 khoản 1 Điều 79 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 quy định cơ sở tái chế không được gần khu dân cư, nguồn nước mặt nhưng chưa có quy định cụ thể về khoảng cách an toàn giữa cơ sở tái chế và khu dân cư. Do vậy, ở các làng nghề hiện nay, do các cơ sở tái chế chất thải rắn thông thường đã hoạt động tự phát từ lâu đời thì việc làm rõ điều kiện gần khu dân cư và gần nguồn nước là rất khó khăn. Thứ tư các quy định về xủ phạt hành chính đối với quản lý chất thải rắn còn chung chung, thiếu rõ ràng, Khoản 1 Điều 14 Nghị định 81/ NĐ –CP ngày 9/8/2006: “phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000- 500.000 đồng đối với hành vi thải chất thải không đúng quy định về bảo vệ môi trường”. Đây là quy định rất chung chung, thiếu cụ thể bởi lẽ hành vi “thải chất thải rắn không đúng nơi quy định về bảo vệ một trường” là không rõ ràng, thiếu cụ thể, rất đa dạng và khó xác định chính xác trên thực tế hoặc có thể là quá rộng, dẫn tới chồng chéo với hành vi khác. Quy định này gây quá nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật. Thứ năm, một số quy định trong Nghị định 81/NĐ- CP ngày 9/8/2006 liên quan tới chất thải rắn không có tính khả thi, ví dụ với quy định về tước giấy phép môi trường, thì hiện nay nhiều cơ sở dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn thông thường không cần phải có giấy phép môi trường theo quy định của pháp luật hiện hành cho nên vấn đề tước giấy phép môi trường của các cơ sở này hầu như không có giá trị. Hạn chế của pháp luật bảo vệ môi trường liên quan đến quản lý chất thải nguy hại Thứ nhất, việc quy định của pháp luật về quản lí chất thải là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường. Tuy nhiên, trên thực tế những quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại còn rất nhiều bất cập. Chính những hạn chế trong pháp luật về quản lí chất thải nguy hại đang làm ảnh hưởng xấu đến công tác quản lí chất thải nguy hại. Một thực tế đã bôc lộ và gây nhiều khó khăn cho công tác quản lí chất thải hiện nay là hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại của chúng ta vẫn còn chưa đầy đủ chưa hoàn thiện, thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện và nhất là thiếu các chế tài xử phạt. Như chưa có các quy đinh về quản lí khí thải, các quy đinh về chất thải nguy hại từ sinh hoạt và nông nghiệp chưa được quản lí chặt chẽ, quy định về lưu giữ chất thải chờ thiết bị công nghệ không mang tính khả thi, chưa có quy định của pháp luật về phân loại các chất thải nguy hại trong sinh hoạt. Chế tài xử phạt còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm: Thiếu các quy định liên quan đến mua bán chất thải, kinh doanh chất thải. Người bán chất thải nguy hại chỉ bị xử lí kỉ luật, không bị xử lí về phương diện môi trường. Người mua cũng không bị xử lí về phương diện môi trường mà chỉ bị xử lý kỷ luật. Việc xây dựng các quy định về quản lí chất thải mới chỉ căn cứ chủ yếu vào kết quả của một dự án mà chưa mang tính tổng thể vì vậy nội dung của quy chế chỉ tập trung tới các hóa chất ở ba dạng: chất thải chứa kim loại, chất thải chứa chất hữu cơ vô cơ, chất thải chứa hợp chất nhưng bản chất chất thải có tính đa dạng hơn nhiều so với các hóa chất thuần túy và vì thế quy chế đã được ban hành nhưng thiếu tính khả thi vì nó chưa bao trùm hết các dạng chất thải nguy hại. Để các văn bản pháp luật liên quan đến quản lí chất thải phát huy hiệu lực cần có sự hướng dẫn cụ thể và chi tiết, ví dụ cần chỉ rõ các yêu cầu thiêu đốt chất thải y tế và chỉ ra cụ thể diện tích tối thiểu mà một bãi chôn lấp hợp vệ sinh cần có hay chí tiết hóa mục tiêu với phần trăm phạm vi thu gom. Tuy nhiên cho đến nay mặc dù quy chế quản lí chất thải nguy hại và sau đó là quy chế quản lí chất thải y tế đã được ban hành khá lâu nhưng điều bất cập là chưa có đầy đủ các thông tư hướng dẫn cụ thể. Việc thực hiện quy chế cho các đối tượng là các cơ quan quản lí nhà nước về chất thải ở địa phương các nguồn chất thải chủ thu gom vận chuyển, chủ xử lí tiêu hủy chất thải. Việc ban hành các văn bản quy định về các tiêu chuẩn bãi chôn lấp hợp vệ sinh tiêu chuẩn xe chuyển tải, tiêu chuẩn thiết bị vận hành xử lí cũng còn chậm trễ và chưa đồng bộ. Một vấn đề nữa đang gây rất nhiều khó khăn trong công tác thực hiện pháp luật về quản lí chất thải hiện nay là chúng ta chưa thể thể chế hóa được các chế tài xử lí cụ thểd việc vi phạm các quy định về quản lí chất thải trong quy chế mới Điều 30 đề cập tới vấn đề này nhưng rất chunh chung chưa cụ thể. Việc xây dựng các tiêu chuẩn hiện nay dựa tên giả định trước rằng đã đầy đủ cơ quan giám sát các hoạt động người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh phạt những người vi phạm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống thanh tra môi trường ở các địa phương còn yếu, chưa có đủ chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết. Từ góc đọ khác có thể thấy những người tham gia xây dựng các tiêu chuẩn thường có tham vọng và đưa ra các tiêu chí tương đối nghiêm ngặt thường quá cao so vói trình độ phát triển chung toàn quốc và do đó khó có đủ cơ sở để thực thi hiệu quả. Thứ hai, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sản sinh chất thải nguy hại nhìn chung là đã đáp ứng được thực tiễn đặt ra nhưng vần còn những hạn chê đó là việc quy định rất chung chung. Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể. Đối với việc giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn là rất phù hợp, là một biện pháp giải quyết tiến bộ nên quy định những biện pháp rõ ràng cụ thể vì nếu các chủ thể tiến hành xử lí chất thải từ nguồn mà áp dụng không đúng các biện pháp thì có thể gây ra những hậu quả nặng nề cho môi trường nên cần quy định rõ các biện pháp cụ thể. Chất thải rất đa dạng phong phú, mỗi loại lại có những biện pháp xử lí riêng nên công việc này khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn nữa. Phải tổ chức lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải nguy hại theo chủng loại theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an toàn kĩ thuật” Nhưng bên cạnh đó còn một vấn đề nảy sinh một vấn đề là việc lưu giữ tạm thời với các đối tượng sản sinh là rất tốn kém. Vì việc lưu giữ chất thải là một vấn đề khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo một quy trình kĩ thuật xử lí công phu đòi hỏi phải có chi phí kinh tế lớn mà với cơ sở sản sinh thì rất khó để những đối tượng này chi ra một khoản tiền lớn như vậy. Trên thực tế thì các cơ sở này cũng khó có thể đáp ứng được đúng các tiêu chuẩn kĩ thuật. Khu vực lưu giữu chất thải của nơi sản sinh có một vai trò quan trọng, cần có thêm quy định về vấn đề này. Thứ ba, đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người vận chuyển chất thải. Pháp luật quy định chỉ được vận chuyển khi có giấy phép vận chuyển chất thải nguy hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Quy định này nhằm giúp các cơ quan quản lí tốt nhất quá trình vận chuyển chất thaỉ nguy hại. Song trên thực tế vấn đề xin cấp giấy phép còn gặp nhiều khó khăn, phải qua nhiều khâu xem xét, thẩm định...Vậy nếu lượng chất thải ứ đọng quá lớn mà giấy phép vận chuyển đi tiêu hủy chưa xin được thì cần phải có biện pháp cụ thể xử lí. Do tính chất của việc vận chuyển chất thải nguy hại có tính chất đặc thù nên pháp luật phải quy định cụ thể hơn nữa về người vận chuyển chất thải nguy hại vì người này gắn liền với quá trình vận chuyển và là người chủ yếu đảm bảo an toàn cho quá trình vận chuyển. Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự chịu trách nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định rõ. Việc quy định về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy định bằng phương tiện chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện đủ tiêu chuẩn để vận chuyển chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu chuẩn cụ thể Thứ tư, đối với người xử lý chất thải nguy hại. Chỉ được thực hiện những hoạt động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt động do cơn quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. Đây là một quy định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy phép lại gây ra những khó khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý vô hình chung làm ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình này. Pháp luật quy định phương pháp xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc thù hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy hại đểm đảm bảo đạt được tiêu chuẩn môi trường. Trường hợp trong nước không có công nghệ thiết bị xử lý thì phải lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải được xử lý. Nhưng trên thực tế công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước vể kiểm định và xử lý chất thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí để đổi mới và bổ sung các thiết bị khoa học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn đầu tư, bởi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuản lý chất thải trong hội nhập kinh tế quốc tế.doc
Tài liệu liên quan