Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá - Đất nước

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Nguồn gốc vàcơ sở lý luận 3

1. Bản chất con người 3

2. Quan điểm về nguồn nhân lực 4

Chương II: Vấn đề nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá 7

1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 7

2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 8

3. Đặc điểm của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 9

4. Vai trò của nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 10

5. Các yếu tố của nguồn nhân lực cần được đáp ứng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 13

Chương III: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước 15

1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. 15

2. Một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 18

Kết luận 22

Tài liệu tham khảo 23

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2185 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá - Đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hư ký, kỹ thuật viên…) làm việc chủ yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin dễ dàng mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật và công nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra năm loại: lao động tri thức, lao động quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá. Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm. Nồng độ tri thức, trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ yếu vào đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao động dữ liệu. ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ trong hàng hoá trong thời gian tới. Tóm lại, xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm đúng mức trong quá trinh đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội. Chương II: Vấn đề nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá 1. Quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quan niệm đơn giản nhất về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho rằng “ công nghiệp hoá là một đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị ( cho một vùng, một nước), các nhà máy, các loại công nghiệp…” Quan niệm mang tính triết tự này được hình thành trên cơ sở khái quát hình thành lịch sử công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu, Bắc Mỹ. Nghiên cứu phạm trù công nghiệp hoá của các nhà kinh tế Liên Xô( cũ) ta thấy trong cuốn giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô được dịch sang tiếng việt 1958, người ta định nghĩa “ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là phát triển đại công nghiệp, trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết cho việc cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến.” Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc( UNIDO) đã đưa ra một định nghĩa: “ công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này, một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ của nền kinh tế và xã hội.” Theo quan điểm này, quá trình công nghiệp hoá nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chứ không phải chỉ nhằm một mục tiêu - kỹ thuật. Kế thừa chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút ngắn những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ bẩy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: “công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động cao”. Tóm lại đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Thực hiện công nghiệp hoá là nhằm phát triển kinh tế- xã hội, đưa nước ta theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. 2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập trên cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình công nghiệp hoá là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý nghĩa to lớn và có tác dụng hoàn thiện về nhiều mặt. Cụ thể: Nước ta lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, 80 % dân cư nông thôn có mức thu nhập thấp. Vì vậy công nghiệp hoá là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng xuất lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, từ đó nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. Không những vậy, mà công nghiệp hoá còn làm biến đổi về chất của lực lượng sản xuất nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm của nền kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các nước với nhau, nâng cao trình độ quản lý của kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, tăng khả năng đảm bảo an ninh và quốc phòng, các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng. Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ thì công nghiệp hoá càng trở lên cấp thiết đối với tất cả các nước đặc biệt là các nước đang phát triển như ở Việt Nam. Vì vậy, mà hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VII đã xác định tới đây nước ta “ chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một bước công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ, tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới”. 3. Đặc điểm của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu “ xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng nền kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ( kinh tế, chính trị, khoa học…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái về mới chất. Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quá trình lâu dài, có rất nhiều khó khăn, thách thức găy gắt nhưng cũng có nhiều thuận lợi và thời cơ lớn. Cần phải biết tranh thủ thời cơ, phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách thì mới có thể thực hiện thành công sự nghiệp này. Muốn vậy, đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng ở mức độ tác động với vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng ở mức độ khác nhau, trong đó nguồn lực con người phải trở thành động lực phát triển, có vai trò quyết định thành công của sự nghiệp này. Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hoá những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Muốn vậy, thì phải nâng cao khả năng nhận thức của con người trong việc học hỏi tiếp thu những khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại trên thế giới để rút ngắn khoảng cách tụt hậu của ta so với các nước khác. 4. Vai trò của nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch sử kinh tế của các nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ… nhiều nhà kinh doanh nước ngoài khi đến thăm quan Nhật Bản thường chỉ chú ý đến kỹ thuật, máy móc và coi đó là nguyên nhân dẫn đến “ kỳ tích Nhật Bản” nhưng họ đã nhầm, chính người Nhật Bản cũng không quan niệm như vậy. Người Nhật cho rằng kỹ thuật và công nghệ có vai trò rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn đến thành công của họ là con người. Chính vì vậy, họ đã tập trung cao độ và có những chính sách độc đáo phát triển yếu tố con người. Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi vì: - Thứ nhất: các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với xã hội khi được kết hợp với các nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự tác động, cải tạo khai thác của con người, tất cả chúng đều phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối nó. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “ lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”. - Thứ hai: Các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn lực con người là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại. Nhờ vậy, con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói trình độ vô tận của con người. - Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động. đến nền kinh tế trí tuệ ( mà gọi là tri thức ). ở những nước này, lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc “ bắt chước” hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc của con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình. - Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa công nghiệp hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định qui mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại là quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành nghề… không có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những chiến lược, chính sách phát triển đúng đắn; không có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua toàn bộ phân tích trên có thể kết luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự nghiệp phát triển con người thì con người phải được coi là giá trị tối cao. Do vậy, muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay. 5. Các yếu tố của nguồn nhân lực cần được đáp ứng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là thành công hay thất bại nó chỉ được trả lời khi yếu tố con người được đáp ứng. Việc định hướng đi vào sự phát triển con người đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu con người để phát triển con người, phát triển con người để đáp ứng các sự phát triển khác. Sự phát triển con người quyết định sự phát triển của mọi mặt. Sự thách thức đối với sự phát triển con người đó là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, do đó con người cần phải được chăm lo đào tạo cả về trí lực và thể lực. Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết phải là trí tuệ, bởi “ tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của nó” tức nói cách khác đi trí tuệ làm chủ con người, trình độ trí tuệ được phản ánh qua trình độ học vấn và tài năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở khả năng áp dụng những thành tựu khoa học để sáng chế ra những kỹ thuật tiên tiến, ở sự nhạy bén, thích ứng nhanh và làm chủ được kỹ thuật, công nghệ hiện đại, có kỹ năng lao động nghề nghiệp, có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực hiện. Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ- yêu cầu không thể thiếu được đối với người lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức và hoạt động thực tiễn để biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Sản xuất công nghiệp đòi hỏi người lao động hàng loạt các phẩm chất như có tính kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần hiệp tác và tác phong lao động công nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và có trách nhiệm cao đối với công việc được giao… Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn đụng chạm đến vấn đề phức tạp trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Đây là vấn đề cấp bách sống còn không chỉ với mỗi quốc gia mà còn đối với nên văn minh nhân loại. Vì vậy sự hiểu biết và trách nhiệm cao đối với vấn đề môi sinh cũng là một năng lực và phẩm chất quan trọng của người lao động trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể đạt được kết quả tốt nếu không có những công dân yêu nước ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo có tinh thần hợp tác, ý chí tự vươn lên… Chương III: thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước 1. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay. Trong công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế – xã hội, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều đó khẳng định do có đường lối đúng đắn của Đảng, nhà nước và phát huy được nhân tố con người, coi nguồn nhân lực là tiềm năng lớn lao đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó thì nguồn nhân lực vẫn đang tồn tại những bất cập đang cần có hướng giải quyết. Số lượng lao động: Năm 2001, nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động ở nước ta có hơn 46,7 triệu người, trong đó khu vực nông thôn gần 34,4 triệu người, khu vực thành thị 12,3 triệu người. Con số này của năm 2004 tương ứng là 51,34 triệu người, 36,92 triệu người và 14,42 triệu người. Giai đoạn 2001-2005 tốc độ nguồn nhân lực bình quân hàng năm tăng khoảng 2,8%. Tiềm năng qui mô nguồn nhân lực lớn, hàng năm có khoảng 1,78 triệu người bước vào tuổi lao động. Đây có thể nói vừa tạo thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn trong việc phát triển nguồn lực con người. Trước hết thuận lợi ở chỗ tạo nguồn nhân lực dồi dào cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đặc biệt trong giai đoạn chúng ta đang tiến hành công nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đây lại là thế mạnh của chúng ta. Với lực lượng lao động dồi dào như vậy sẽ giúp hoàn thành sự nghiệp này nhanh nhất, cố gắng đến năm 2020 cố gắng đưa nước ta căn bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, lực lượng lao động dồi dào lại đang tạo ra sức ép về đào tạo dạy nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Tỷ lệ tăng trưởng nguồn nhân lực cao của nước ta có nguồn gốc từ cơ cấu dân số trẻ và tỷ lệ tăng dân số cao so với các thời kỳ trước. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê thì dân số trong độ tuổi lao động ở nước ta năm 2006 đạt 53,2 triệu người, chiếm 63,09% dân số, đến năm 2010 đạt trên 57,4 triệu người chiếm 64,65% dân số. Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động bình quân các năm 2006-2010 là 1,092 triệu người / năm, hoặc bình quân tăng 2%/ năm .Ước tính trong vòng 10 năm tới, chúng ta cần tạo công ăn việc làm cho gần 18 triệu người bước vào tuổi lao động, đa số xuất phát từ các vùng nông thôn, nơi vẫn duy trì mức sinh cao hơn so với thành thị, nhưng chỉ có một phần nhỏ trong số này có thể tìm được việc làm bằng hình thức thề chỗ những người đã đến tuổi nghỉ hưu và thôi lao động. Riêng năm 2005, nước ta có 43 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó có 32 triệu người lao động ở nông thôn, 2,5 triệu người có nhu cầu giải quyết việc làm. Trong khi đó, số người thất nghiệp ở nước ta dù đã giảm, nhưng vẫn còn rất đáng lo ngại. ở vùng đô thị, năm 2001 là 6,28%, năm 2002 là 6,01%, năm 2003 là 5,78%, năm 2004 là 5,53%, ước tính 2005 là 5,28%. Điều đáng quan tâm là hiện nay, do sự chênh lệch lớn về giá trị lao động giữa các khu vực, nên đã dẫn đến tình trạng lao động dôi ra từ khu vực nông thôn dồn ra các vùng đô thị, công nghiệp khiến cho vấn đề việc làm vốn đã khó khăn ở đây càng trở nên khó khăn hơn. Cơ cấu lao động: Cơ cấu trình độ của đội ngũ lao động hiện nay theo tỷ lao động trình độ ĐH, THCN và công nhân kỹ thuật là 1:1,2:2,7 trong khi đó thì cơ cấu này ở nhiều nước trên thế giới và các nước trong khu vực là 1/4/10. Đây là một cơ cấu bất hợp lý và để kéo dài dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung cấp kỹ thuật. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất ở nước ta, đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm hơn 80% đội ngũ lao động, đội ngũ công nhân đã qua đào tạo, nhà kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%. Tính đến năm 2002, chúng ta đã đào tạo được hơn một triệu cán bộ các ngành kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu ngành như sau: sư phạm 33,3%, khoa học kỹ thuật: 25,5%, khoa học xã hội 17%, y dược 9,3%, nông nghiệp: 8,1. Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo như vậy là một bất hợp lý, là một nước nông nghiệp mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH. Nguyên nhân của tình trạng trên là do thời gian qua chúng ta đã buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo, để phát triển tự phát theo nhu cầu của người dân, còn nặng tâm lý khoa cử, nhẹ tâm lý thực nghiệm, chưa gắn đào tạo với sử dụng và chưa chú ý đúng mức công tác đào tạo nghề.Về cơ cấu đào tạo theo ngành dịch chuyển chậm, năm 2002 tỷ trọng lao động nông nghiệp là 61,14%, công nghiệp là và xây dựng là 15,05%, dịch vụ là 23,81%, đến thời điểm năm 2004 các chỉ số tương ứng là 57,9%; 17,4% và 24,7%. Chất lượng nguồn nhân lực: Về trình độ học vấn phổ thông, qua cuộc điều tra lao động việc làm năm 2004, trong tổng lực lượng lao động cả nước có 5% mù chữ, 12% chưa tốt nghiệp tiểu học 30,5% tốt nghiệp tiểu học, 32,8% tốt nghiệp phổ thông cơ sở và 19,7% tốt nghiệp phổ thông trung học. Đặc biệt có sự cách biệt lớn về trình độ giữa lực lượng lao động thành thị và nông thôn cũng như giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2004, ở đồng bằng sông Hồng cứ 100 người tham gia lao động thì cứ 27 người tốt nghiệp phổ thông trung học, 51 người tốt nghiệp phổ thông cơ sở và chỉ có 3 người mù chữ hoặc chưa tốt nghiệp tiểu học trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long có các chỉ số tương ứng là 11; 16 và 33, Tây Bắc là 12; 23 và 35, Tây Nguyên là 16; 26 và 26. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động. Năm 2004, lao động qua đào tạo nói chung ở nước ta đạt 22,6% trong tổng lực lượng lao động. Trong đó qua đào tạo nghề mới đạt 13,4% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 4,4%, tốt nghiệp đại học, cao đẳng chiếm 4,8% nói chung còn thấp . Về đào tạo đại học và trên đại học đang có xu hướng nghiêng nhiều về các ngành xã hội, các ngành kỹ thuật, công nghệ thiếu nhân lực trình độ cao, cơ cấu đào tạo nghề bất hợp lý với 85% là đào tạo ngắn hạn, chỉ có 15% là đào tạo chính quy và dài hạn, cơ sở đào tạo nghề ở nước ta phân bố không đều, vùng chiếm tỷ trọng lớn nhất là đồng bằng sông Hồng với 30,2%, tiếp đó là đồng bằng Nam Bộ 26,5%, Đông Bắc 13%, Bắc Trung Bộ 12,1%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 9,9%, đồng bằng sông Cửu long 6,7%, Tây Nguyên 0,9%, Tây Bắc 0,7%. Sự phát triển các cơ sở dậy nghề có sự mất cân đối giữa các vùng phản ánh nhu cầu đào tạo nghề phụ thuộc vào tình trạng tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển khu công nghiệp, thành phố và mức độ hoạt động của thị trường lao động giữa các vùng Về trang bị thiết bị phục vụ cho đào tạo chuyên môn kỹ thuật tay nghề còn bất cập vừa thiếu về số lượng vừa lạc hậu về chất lượng. Qua khảo sát thực tế ở các địa phương, cơ sở có đến hơn 50 % số trang thiết bị của cơ sở đào tạo nghề được sản xuất trước năm 1990 và hơn 6% sản xuất trước năm 1975, thậm chí từ năm 1960, số trang thiết bị hiện đại, đáp ứng tốt cho công tác dạy nghề chỉ đạt 20%. Đặc biệt là trang thiết bị đào tạo nghề trong các ngành: cơ khí, hoá chất, luyện kim, sửa chữa thiết bị chính xác, in ấn… lạc hậu rất nhiều so với công nghệ áp dụng hiện nay trên thế giới. Một bộ phận cơ sở đào tạo nghề có trang thiết bị cho đào tạo, rèn luyện kỹ năng nghề còn lạc hậu hơn so với công nghệ đang vận hành trong nền kinh tế. Ngoài ra, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, hiện tượng dạy chay còn phổ biến, đội ngũ giáo viên còn nhiều bất cập nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung… đã làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo dạy nghề và nguồn nhân lực ở nước ta. 2. Một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện được mục tiêu phát triển về quy mô và cơ cấu đôi ngũ lao động đã qua đào tạo đến năm 2010, từng bước nâng cao chất lượng về trí lực và thể lực và tính năng động lao động xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá về kinh tế, giai đoạn 2006-2010 cần tập trung vào các nhóm cơ bản sau: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ dân số, giáo dục và đào tạo Gia tăng dân số tác động không nhỏ đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội ở Việt Nam. Nếu không kiểm soát được tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề thách thức như an ninh lương thực, môi trường…Vì thế song song với việc tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số phải tích cực lồng ghép chươn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35810.doc
Tài liệu liên quan