Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phần tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

I. Lời giới thiệu 1

II. Phần cơ sở lý luận . 2

1. Lý luận của phép biện chứng về mối liên hệ Phổ biến 2

1.1. Khái niệm phép biện chứng . 2

1.2. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến . 2

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận . 2

2. tính tất yếu phải hội nhập kinh tế 3

III Phần cơ sở thực tiễn . 5

1. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập – tự chủ của nước ta trong giai đoạn 1986-2000 5

1.1 Thành tựu 5

2 cơ hội và thách thức 6

1.2.1 Thách thức . 6

1.2.2. Cơ hội . 9

2. Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập 10

IV Phần kết luận . 13

Các tài liệu tham khảo . 14

 

 

 

 

 

 

doc16 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5013 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận dụng phần tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định mà nó đang tồn tại,vận động và phát triển đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh , của môi trường đối với sự tồn tại của sự vật , đối với tính chất cũng như xu hướng vận động và phát triển của nó. Khi vận dụng một nguyên lí nào đó vào trong thực tiễn , cần phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng , tránh giáo đều, rập khuôn , máy móc, chung chung . Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế Hội nhập kinh tế là hiện tượng xảy ra trong quan hệ giữa các quốc gia, Cách hiểu phổ biến nhất hiện nay về hội nhập kinh tế là xoá bỏ sự khác biệt kinh tế giữa các nền king tế thuộc các quốc gia khác nhau . Hội nhập kinh tế ở việt nam là một tất yếu lịch sử , là một đòi hỏi khách quan khác nhau. cuối những năm 70 , đầu những năm 80 , việt nam vào khủng hoảng, cuộc khủng hoảng này đặt việt nam trước một sự lựa chọn hoặc là tiếp tục tìm kiếm giải pháp trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp, hoặc là phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện theo ảnh hưởng thị trường để thoát ra khủng hoảng việt nam cho đến trước 1986 đã áp dụng giải pháp thứ nhất nhưng không mang hiệu quả . Từ 1986 đến nay, việt nam đã lựa chọn giải pháp thứ hai tiến hành đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước và đã từng bước khắc phục được khủng hoảng lựa chọn theo con đường đổi mới là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn. Tình hình quốc tế thời gian này có nhiều thay đổi sâu sắc. chiến tranh lạnh kết thúc , hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông Âu tạn rã cùng với sự sụp đổ của mô hình kinh tế xô viết. Xu hướng toàn cầu hoá và mở cửa kinh tế khu vực, kinh tế quốc tế phát triển sâu rộng Các nước Đông á đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường , hội nhập khu vực đã thu được những kết quả nổi bật tình hình quốc tế đã tác động rõ nét đến việt nam , cho phép việt nam có thể ưu tiên phát triển kinh tế , có thể tìm kiếm một mô hình phát triển khác – mô hình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế Như vậy đổi mới kinh tế là một định hướng chiến lược trên cơ sở chuyển nền kinh tế từ tập trung , quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đảng xác định chủ động hội nhập kinh tế và bảo đảm độc lập, tự chủ hội nhập kinh tế trở thành một đòi hỏi khách quan đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước hết , xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trên cơ sở lợi ích kinh tế của các bên tham gia đã trở thành nhân tố góp phần ổn định khu vực , tạo điều kiện cho các nước giảm bớt các khoản chi cho an ninh , quốc phòng để tập trung các nguồn lực cho việc phát triển kinh tế , công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước , Đồng thời sự ổn định về kinh tế – chính trị – xã hội chính là điều kiện trên quyết để thu hút đầu tư nước ngoài. Thứ hai ,hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những mối quan hệ kinh tế – chính trị đa dạng đan xen lẫn nhau góp phần nâng cao vị trí quốc tế và tạo điều kiện để việt nam tham gia bình đẳng trong giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế sự giảm dần các hàng thuế quan và phi thuế quan các phân biệt đối xử chính thức và phi chính chức, kinh tế và phi kinh tế sẽ tạo ra cơ hội không chỉ cho các nền kinh tế lớn mà còn cho cả các nền kinh tế nhỏ tham gia bình đẳng vào guồng máy kinh tế thể giới. Thứ ba , với mối giao lưu kinh tế ngày càng rộng mở , việt nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nước đi trước, tránh được sai lâm tìm biện pháp rút ngắn thời gian đẻ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hội nhập kinh tế còn là điều kiện để việt nam điều chỉnh các chính sách và các chế độ kinh tế phù hợp chuẩn mực của các tổ chức và các định chế quốc tế, tạo môi trường chuyển giao các công nghệ kỹ thuật cao,rút ngắn thời gian và khoảng cách đuổi kịp các nước trong khu vực và thể giới Thứ tư, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là môi trường quan trọng đẻ các doanh nghiệp việt nam chấn chỉnh tổ chức quản lý sản xuất, đổi mới công nghệ , nắm bắt thông tin , tăng cường khả năng cạnh tranh , không những trên thị trường thế giới mà ngay cả ở thị trường nội địa Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện mở rộng thị trường thương mại , hàng hoá, dịch vụ và đầu tư do được hưởng những ưu đãi cho các nước chậm phát triển và đang phát triển, Thứ năm , công đồng thế giới đứng trước những vấn để toàn cầu như suy thoái môi trường , bùng nổ dân số, nghèo đói các bệnh tật hiểm nghèo và các vấn để xã hội xuyên quốc gia không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được mà cần phải có sự hộp tác đa phương hội nhập kinh tế quốc tế trở thành xu thế khách quan của thời đại Chương 2 Vận dụng phân tích chủ động hội nhập quốc tế 1 Thực tiễn xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập , tự chủ của nước ta trong giai đoạn 1986- 2000 1.1 Thành tựu đã đạt được Chặng đường 15 năm đổi mới kinh tế – xã hội vừa qua ( 1986-2000) của nước ta là thời kỳ phát triển mới của đất nước và là thời kỳ đã đạt được những thành tựu to lớn chưa từng có từ trước đến nay rất đáng tự hào Thành tựu nổi bật nhất là nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ phát triển và tăng trưởng kinh tế với nhịp độ ngày càng cao Tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986-1990 là 3.9%; 1991-1995 là 8,2%; 1996-2000 là 5,95% lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống 67,4% năm 1990 ; 12,7% năm 1995 và 0,1% năm 1999; 0% năm 2000 giá trị đồng tiền việt nam ổn định trong suốt thập kỳ 90, tạo điều kiện cho các ngành , các doanh nghiệp, các hộ gia đình yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất, làm giàu chính đáng. Trong công nghiệp , nhà nước đã trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xoá dần bao cấp, giảm bớt các chỉ tiêu pháp lệnh khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp nhờ đó sản xuất công nghiệp liên tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao,bình quân 5 năm 1991-1995, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 13,7%, năm 1996 tăng14,2% 1997 tăng 13,8%; 1998 tăng 12,1%;1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 15,5% không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối cùng của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng ngành, đa sản phẩm với sự tham gia của các thành phần kinh quốc doanh, ngoàI quốc doanh và công nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn gũi vai trò chủ đạo Về nông nghiệp , thành tựu nổi bật và to lớn nhất trong 15 năm đổi mới là đã giải quyết vững chác vấn đề lương thực bảo đảm an ninh lương thực quốc gia,biến việt nam từ nhà nước thiếu lương thực triển miên thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thể giới liên tục từ 1989 đến nay, sản lượng lương thực tăng liên tục từ 1988 theo hướng năm sản lượng lương thực tăng 5%(1,3 triệu tấn) cao hơn tốc độ tăng dân số 1,8 % nên lương thực bình quân nhân khẩu/ năm cũng tăng dẫn từ 280 kg/năm 1989 lên 324kg/năm 1990 372 kg/ năm 1995 447 kg/năm 1999 và 455 kg năm 2000 sản lượng của một số cấy công nghiệp trong thời kỳ 1999-2000 tăng khá cao cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía tăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần. Sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 10 năm (1990-2000) là 8,85% Thị trường hàng hoá và dịch vụ khởi sắc trên phạm vi cả nước, sứa mua của xã hội ngày càng tăng .tình trạng cung cấp thay đem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ từ cuối những năm 80, thay vào đó là lưu thông tự do, thống nhất giá cả thị trường sôi động , sức mua năm 2000 đạt 200 nghìn tơ đồng tăng 94% so vơi năm 1995 Hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng chuyển biến tích cực và có nhiều khổi sắc, nhất là những năm gần đây ,xuất khẩu bình quân 1 năm từ 570 triệu usd thời kỳ 1981-1985 tăng lên1370 triệu usd thời là 1986-1990, 3401 triệu usp thời kỳ 1991-1995 và 5646 triệu usp thời kỳ 1996-2000. Riêng năm 1999 đạt 11,523 tỉ năm 2000 đạt trên 14 tỉ usd :đén nay nước ta đã có quan hệ thương mại với trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ – nhiều hàng hoá mang nhãn hiệu made in viet nam đã có mặt trên thị trường thể giới với số lượng ngày càng nhiều , chủng loại phong phú và sản lượng ngày càng tiến bộ. Hoạt đọng đầu tư nước ngoài bắt đầu sôi động từ 1988 với 37 dự án 377,8 triệu usd vốn đầu tư, 288,4 triệu usd vốn pháp định. năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất là 1996 với 8947,3 triệu usd , 325 dự án đến cuối năm 2000 , cả nước có khoảng 3000 dự án của 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đảng kỳ 3,6 tỷ usd . vốn thực hiện 16,89 tỷ usd (chưa tính liên doanh dầu khí viet xo): Hoạt động đầu tư nước ngoàI đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỷ usd , tạo ra 21,6 tỷ usd hàng hoá xuất nhập khẩu , giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp, nhất là trong ngành dựng. Nguồn vốn FDI cùng với vốn tài trợ ODA đã giải ngăn 7 tỷ us và trở thành nguồn vốn lớn của cả nước , đảm bảo cho sự phát triển và tăng trưởng ổn định của các ngánh sản xuất và dịch vụ năm 1999, khu vực FDI đã tạo ra 10,7% GDP, 25% giá trị xuất khẩu , góp phần quan trọng để phát huy nội lực của toàn bộ nền kinh tế , bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện hợp pháp và mở cửa . Sự hình thành và phát triển 3 vùng kinh tế trong điểm ở miền và 68 khu công nghiệp, khu chế xuất đã là những mô hình mới và là điểm sáng trong bức tranh kinh tế nước góp phần quan trọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Quá trình 15 năm đổi mới 1986- 2000 đã đạt được những thành tựu đáng kể , bộ mặt đất nước đổi thay theo hướng văn minh , hiện đại , đời sống vật chất và tình thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện , công bằng xã hội được đảm bảo đến năm 2000 , điện lưới quốc gia đã phủ khắp 98% số huyện, 70% số xã ,thị trấn, 98% số chợ ở thành thị và 70% số hộ nông thôn giao thông đường bộ, đường sắt,đường thuỷ đều hết sức thuân lợi . thu nhập của dân cư năm 1999 đạt bình quân 295 nghìn đồng người /tháng , đăng 30,1 % so với năm 1996 tỷ lệ hệ nghèo giảm từ 13,3 % năm 1999 xuống còn 11% năm 2000 và đạt mục tiêu xoá đói giảm nghèo của chính phủ đặc biệt các vùng bị thiên taì lớn như 8 tính bị lũ lớn ở đồng bằng sông cửu long, lũ úng ở lai … bão ở hà tính – quãng bình …..đều được nhà nước và nhân dân nước cứu trợ tạp thời, có hiệu quả . Đời sống tình thần của nhân dân được cải thiện ,đến nay trên 50% số hộ có ti-vi ,49% có nghe nhạc 25% có xe máy ...... Thành tựu kinh tế cùng các thành tựu các lĩnh vực khác đã tạo ra thế và lực cho đất nước. 1.2 cơ hội và thách thức: 1.2 .1 thách thức: Bên cạnh những thành tựu đã nêu ổ trên , 15 năm qua tình hình kinh tế – xã hội nước ta đã xuất hiện những vấn đề mới ra đáng quan tâm , những thách, thức không thể không kể đến . Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng chưa ổn định và chưa vững chắc- trong 15 năm đổi mới vừa qua , tốc độ tăng trưởng kinh tế tính theo GDP tuy có nhanh hơn các thời là trước đổi mới nhưng chưa ổn định , chưa vững chắc, bình quân 5 năm 1986-1990 tăng 3,9% 1991-1995 tăng 8,2 % , 1996-2000 tăng 5,95% , Đặc biệt xu hướng giảm tốc độ tăng GDP xuất hiện khấ rõ 1996 =9,24% ; 1997= 8,26 ; 1998= 5,76% ;1999= 4,77 % và 2000 có nhích lên, nhưng cũng chỉ đạt 6,7% . những ngành và lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng cao chủ yếu là khai thác mới , viễn thông, dịch vụ tư vấn, xây dựng .... không phải là những ngành sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu …kinh tế nhà nước và lập thể tăng trưởng không ổn định và xu hướng hãm dần rõ, nhất là những năm 1997-2000 . kinh tế tư nhân , cá thể và đầu tư nước ngoài tăng trưởng với nhịp độ cao hơn , nhưng chưa ổn định và cũng xuất hiện xu hướng chững lại . tốc độ tăng GDP của khu vực kinh tế nhà nước năm 1995 là 9,4 % ; năm 1999 là 2,6% và 2000 là7,4% kinh tế tư nhân 9,3% , 3,2% và 7,3% ; kinh tế có vốn FDI 15%; 17,6%; 9,9% trong thời gian tương ứng . Thứ hai , sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ nói chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nguyên nhân chủ yếu là do máy móc, thiết bị cũ, nhưng tốc đọ đỏi mới chậm , việc đưa tiến bộ sản xuất mới vào sản xuất chưa đồng bộ các doanh nghiệp và người lao động chỉ mối quan tâm nhưng đến các chỉ tiêu số lượng, chưa chú ý đến chất lượng và giá cả , như vậy , sức cạnh tranh của hàng hoá thấp , ngay cả ở thị trường trong nước . theo kết quả điều tra, đến giữa năm 1998, chỉ có 26,9% số doanh nghiệp giành được ưu – thế , chiếm lĩnh thị trường nhưng chưa vững chắc, 14,3% không có sức cạnh tranh chỉ có 23,1 có hàng hoá xuất khẩu , 13,7% có triển vọng xuất khẩu hàng hoá 62% không có khả năng xuất khẩu . Đầu ra của các sản phẩm công , nông nghiệp không ổn định , tình trạng tồn động hàng hoá diễn ra khá phổ biến , rõ nhất là xi măng săt thép , giấy đường, gạo, cà phê, sau quả và gần đây là hàng điện thoại ô tô, xe gắn máy lắp ráp, tình hình tưởng tự cũng diễn ra với các ngành dịch vụ , du lịch- nên tiềm năng chưa được khai- thác hợp lý Thứ ba : xu hướng giảm phát xuất hiện và kéo dài trong những năm, nhất là 5 năm cuối cùng của thập kỷ 90 ,nếu như 10 năm đâu của sự nghiệp đổi mới ( 1986-1995) kiềm chế lạm phát là một thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta, chỉ số lạm phát tư 764% năm 1986 xuống còn 167% (1990) và 112,7% (1995) thì tư 1996- 2000 lại xuất hiện xu hướng giảm phát đáng lo ngại . số giá tiêu dùng dừng ở mức một con số , lại có xu hướng giảm dần từ 104, 5% năm 1996 xuống còn 103,6% năm 1997; 100,1%năm 1999; 99,4% năm 2000 và tiếp tục kéo dài trong những tháng đầu năm 2001 .xu hướng này thể hiện rõ nét nhất trong những loại hàng hoá, lương thực , thực phẩm từ 104,4% năm 1996 xuống 98,1% năm 1999 và 97,7% năm 2000 làm cho thu nhập của nông dân và sức mua ở thị trường nông thôn giảm sút một cách tương đối , đối với nước ta ,gần 88% dân số ở nông thôn thì xu hướng yếu tố hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng Thứ tư Tình trạng lao động thừa , việc làm thiếu vẫn còn phổ biến ở cả 2 khu vực thành thị và nông thôn , chất lượng lao động thấp Tỉ lệ thất nghiệp của lao động thành thị trong độ tuổi đã tăng từ 5,88% năm 1996 lên 6,01% năm 1997 ; 6,85% năm 1998; 7,40% năm 1999 và 6,44% năm 2000 ở khu vực nông thôn có gần 30% thời gian lao động thiếu việc làm, số lao động dôi dư hàng năm lên tới 7-8 triệu người , trong khi đó quĩ đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm dần do quá trình đô thị hoá , công nghiệp hoá và tốc độ tăng tự nhiên về dân số còn cao, ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp phát triển chậm Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến xu hướng phát sinh và làm gia tăng các tệ nạn xã hội và di dân tự do ở nhiều vùng , địa phương Thứ năm phân tầng về đời sống và thu nhập giữa nông thôn và thành thị và phân hoá giàu – nghèo trong nội bộ dân cư có xu hướng . theo tổng cục thống kê, hệ số chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị tăng dần từ 2,55 lần năm 1999 -2000 Thứ sáu : Môi trường sinh thác có chiều hướng suy giảm trong quá trình phát triển kinh tế , bao gồm môi trường không khí đất nước, rừng biển, sông ngòi ở cả thành phố và nông thôn Bên cạnh đó , những thách thức đáng nói là vị thế của ta trên Trường quốc tế bị yếu đi và dẫn đến nhiều nguy cơ về tài chính – kinh tế Thứ nhất là nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao , tỉ lệ giào hoàn bất lợi , xuất phát từ việc xuất khẩu nông sản khoảng sản thô giá rẻ và nhập khẩu hàng cao cấp giá cao.sự thiệt thời triền miên năm này qua năm khác ước tính nhiều triệu USD khiến cho nước ta nghèo càng nghèo thêm . Thứ hai là nguy cơ nhập siêu dẫn đến thâm thủng cán cân thương mại hay phải vay tiền nước ngoài . trong các năm 1995-1997 chúng ta nhập siêu trên dưới 3 tỷ USD , nợ quốc tế tăng khoảng 2-3 tỷ USD/nam để trám vào thâm thủng cán cân thương mại và các chi phí khác về ngoại tệ. Thứ ba , nợ quốc tế gia tăng với tốc độ nhanh hàng năm dẫn đến tình trạng nợ đáo hạn và vốn lời phải trả tiền mỗi năm mỗi tăng ,Muốn trả nợ quốc tế chỉ có 2 phương pháp a) xuất siêu để có dư cân thương mại hoặc vay nợ mối để có ngoài tệ trả nợ cũ – trong thập niên 90, chúng ta không có xuất siêu , vì vậy phải áp dụng biện pháp vay nợ mới trả nợ cũ cả vốn lẫn lãi , khiến cho nợ quốc té tăng gia nhanh theo định luật lãi kép. Nợ quốc tế, nếu ước hơn 15 tỷ USD thì bằng đến khoảng 50% GDP của nước ta nợ quốc tế tăng nhanh đến một mức nào đó có thể dẫn đến tình hình khủng hoảng tài chính – tiền tệ như đã xây ra ở thái lan khi ấy , cơ quan tiền tệ đã để nghị với Thái lan những biện pháp trọn gói , trong đó có nhiều biện pháp mà thái lan cho rằng vi phạm nền độc lập- tự chủ kinh tế quốc gia ,sau đó chính phủ thái lan đã buộc phải nhận tình hình nợ quốc tế của chúng ta so với thái lan ít hơn nhiều nhưng bài học từ thái lan cho thấy việc nợ quốc tế tăng có thể dẫn đến việc ngân hàng trung ương không còn khả năng thanh toán quốc tế ,đặc biệt là các trang trải nhập khẩu thông thường và lúc bây giờ sễ xây ra khủng hoảng tài chính – tiền tệ. Thứ tư : hội nhập quốc tế giúp việt nam tranh thủ kỹ thuật khoa học , vốn của quốc tế tuy nhiên các công ty nước ngoài chỉ đầu tư ở việt nam nếu họ có lợi Như vậy ,chúng ta ở trong thế yếu ,chỉ có khả năng hạn chế họ bớt lợi mà thôi, nhưng nếu đầu tư mà thu được ít lợi , họ sẽ dừng hay giới hạn đầu tư kinh nghiệm cho thấy trong thập niên 90 , nhưng thiết bị đầu tư ở viẹt nam giảm nhanh trong khi thị phần các công ty có vốn nước ngoài tăng nhanh , nhiều công ty phía việt nam có cổ phần khoảng 30% nhờ phần đóng góp bằng mặt bằng, nhà đất đã chuyển thành công ty có vốn nước ngoài 100% do nhiều lí do,trong đó có lý do phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng bên việt nam không có khả năng đáp ứng nếu tình hình này tiếp tục , người nước ngoài sẽ là chủ dần dần hầu hết các doanh nghiệp lớn ở việt nam Sự phối hợp những nguy cơ trên có khả năng đưa đến tìng hình mắt độc lập tự chủ kinh tế – tài chính , tiền tệ , gây ra tình trạng lệ thuộc vào nước ngoài. cơ hội Sau 15 năm đổi mới ,chúng ta ngày càng nhận thức rõ kết quả tích cực đã đạt được nhờ mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại , tham gia nhiều hơn vào các quá trình phân công lao động quốc tế đó cũng là những cơ hội tốt cho ta trong quá trình tiếp tục tham gia tích cực hơn vào toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế những cơ hội đó bao gồm Thứ nhất , toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế ngày càng giúp cho các nước nhận thức rõ hơn và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của mình . bài học của nhiều nước đang phát triển chỉ ra rằng trong hai , ba choc năm đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá , việc tăng cương sử dụng các lợi thế sẵn có về lao động giá rẻ và tào nguyên thiên nhiện phong phú là có lợi và hiệu quả nhất xét cả về mặt hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội . còn những ngành công nghiệp nặng và hiện đại chưa phải là lợi thế của họ trong thời kỳ này nhưng sẽ là lợi thế trong các giai đoạn sau , khi thu nhập quốc dân tính theo đầu người đã đat 2- 4 tỷ USD trở lên và khi quá trình công nghiệp hoá cùng các cơ sở hạ tầng , kinh tế – xã hội đã đạt trình độ tương đối cao như các nước công nghiệp mới chăng hạn . điều đó có nghĩa là : lợi thế so sánh hình thành trong một quấ trình động , có cái sử dụng được ngay , mang lại hiệu qủa cao cần ưu tiên phát triển , có cái phải chuẩn bị , không thể đầu tư trên lan quá nhiều trong lúc chưa đủ thế và lực , dẫn đến lăng phí và phi hiệu quả . thực tế đã gợi cho việt nam một điều là muốn thực hiện công nghiệp hoá nhanh và sút ngắn, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá.phát huy lợi thế so sánh động.tận dụng đến mức cao lợi thể so sánh hiện nay như lao động rẻ , giản đơn ,nguồn tài nguyên nông sản và khoáng sản khá phong phú , đôi dào , đồng thời tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phát triển các lợi thế mạnh của việt nam trong hai, ba chục năm sắp tới như một số ít ngành công nghiệp có hàm lượng vốn khá , công nghệ cao và nguồn lao động được đào tạo tốt. Thứ hai, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là các quá trình phát triển khách quan , giúp cho các nước , nhất là các nước đang phát triển , ngày càng tiếp cận tốt hơn các yéu tố mới của nền kinh tế thế giới như mở rộng thị trường, tăng nguồn vốn, công nghệ lao động có kỹ thuật cao , tăng nguồn thông tin và kinh nghiệm quản lý với việt nam , từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã tranh thủ được khấ nhiều các cơ hội nói trên , nhất là mở rộng được thị trường xuất khẩu , tăng thu hút đầu tư nước ngoài và tranh thủ được thị trường xuất khẩu , tăng thu hút đầu tư nước ngoài và tranh thủ được ngày càng nhiều các nguồn vốn OPA , nhờ đó tăng cường được khả năng phát triển của nước ta, nâng cao uy tín của việt nam trên trường quốc tế mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại , tăng bạn, bớt thù , hạn chế các hoạt động bao vậy , phong toả bất lợi cho ta. Thứ ba , tham gia sâu rộng vào các quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế giúp các nước ngày càng xác định đúng hơn vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường , nếu quá thêm léch về một phía , nhà nước hay thị trường . đều dẫn đến những méo mó , lệch lạc về giá cả, lãng phí về nguồn tài nguyên và mắt cân đối trong quá trình phát triển , kết quả là thất bại trái lại , nếu cân bằng được các mối quan hệ , có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà nước và thị trường , sẽ tranh thủ được thêm nhiều cơ hội , huy động được ngày càng nhiều các lực lượng thị trường theo sự chỉ dẫn của nhà nước để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hay cho sự nghiệp phát triển nói chung Một số giải pháp nhầm góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Trước hết chúng ta nêu lên những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập, từ đó nêu ra những giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế . Thách thức lớn nhất mà nhiều người thường đề cập đén là làm thể nào để tham gia vào các quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế một cách hiệu quả mà vẫn giữ vững độc lập – tự chủ về kinh tế . Điều này không đơn giản khi nền kinh tế nước ta còn ở vào vị thế yếu kém , hệ thống quản lý tài chính và kinh tế còn nhiều bất cập . Để , khắc phục tình trạng này, cách tốt nhất hiện nay là cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường mở và xác định rõ hơn vai trò của nhà nước, khắc phục những bất cập trong mối quan hệ giữâ quản lý hành chính và kinh tế . Hạn chế, đấu tranh chống cách quản lý mang tính hành chính, mệnh lệnh quan liêu, gắn liền với bao cấp và tham nhưng. xây dựng các thể chế kinh tế – xã hội tương thích với quá trình đổi mới và phù hợp với các thông lệ quốc tế , bảo đảm ổn định vĩ mô đi đôi với xây dựng môi trường kinh doanh năng động để các thành phần kinh tế tham gia tốt hơn vào quá trình phát triển. Thứ hai là những khó khăn bắt cập trong các hoạt động thanh toán, hệ thống Tiền tệ , nhất là giải quyết nợ nần và hỗ trợ, tạo cơ hội cho các hoạt động kinh doanh. Đó là một thách thức lớn , nó chống tỏ non yếu của hệ thống tài chính- tiền tệ- ngân hàng của ta chưa đáp ứng được đòi hỏi của quá trình đổi mới, chưa bảo đảm được nên an ninh kinh tế nhất là khi phải đối mặt với những biến động lớn của nền kinh tế thế giới. Giải pháp cho vấn đề này là phải xây dựng và đổi mới hệ thống tài chính- ngân hàng- tiền tệ, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình đổi mới, toàn cầu hoá và hội nhập Sự yếu kém của các công ty – hàng hoá cũng như của nền kinh tế việt nam hiện nay trong cạnh tranh Vì thế cần xây dựng một môi trường cạnh tranh có lợi cho các công ty và hàng hoá việt nam , ở thị trường trong nước và ngoài nước- nhà nước cần có cơ chế , chính sách hõ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua việc đầu tư vào cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ , Đầu tư sản xuất hàng hoá xuất khẩu cần được hoạch định theo chiến lược nhắt quán , phù hợp với các chường trình, mục tiêu dài hạn của nhà nước . trên cơ sở phát huy các tiềm năng vốn có, tránh đầu tư dẩn trải , đầu tư tư phát, theo phong trào chế độ tỉ giá hối đoái là một trong những loại chính sách khó xác định và quản lý . ở nước ta có nhiều nhận định cho rằng tỉ giá của ta chưa linh hoạt để kích thích xuất khẩu và ổn định kinh tế . Như vậy , chúng ta cần thực hiện chế độ tỉ giá hối đoái linh hoạt nhằm vào hai mục tiêu chính : thúc đẩy xuất khẩu và ổn định kinh tế – xã hội Thuế là một công cụ lớn của chính sách tài chính . Nhưng hầu hết các nhà kinh doanh. đầu tư nước ngoài và trong nước đều phân nàn về mức thiếc thu nhập cá nhân cao từ 40-50% thiếc cao không những không khuyến khích tài năng và những người lao động giỏi mà còn đi ngược lại mục tiêu lớn thúc đẩy kinh doanh vì dân giàu , nước mạnh Để vượt qua thách thức đó ,chúng ta cần thực hiện một chế độ thuế thấp, như vậy sẽ dễ thu, đồng thời đảm bảo để lại một phần thu nhập cho nhân dân và các công ty, tức là tăng khả năng tiêu dùng , tăng sức mua, để kích cầu, tăng khả năng đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng lâu dài. Thách thức cơ bản liên quan đến bắt bình đẳng giữa các nước cũng như ở trong một nước .Bất bình đẳng cùng sự phát triển bắt lợi về xã hội , môi trường như sự lan truyền các tệ nạn xã hội , ma tuý , văn hoá không lành mạnh , nạn rửa tiền …bên cạnh đó còn có hai thách thức khác là mức tăng huy động vốn phù hợp và mối quan hệ tương đối cân đối qiữa tăng trưởng và phát triển Để giải quyết vấn đề này ta cần tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển lên mức cao hơn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60068.doc
Tài liệu liên quan