Tiểu luận Phóng sự Truyền hình

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

NỘI DUNG 2

I. Khái niệm phóng sự truyền hình và các dạng phóng sự truyền hình 2

II. Khu biệt đề tài PSTH với các thể tài giáp ranh 3

1. Với tin Truyền hình 3

2. Với phim tài liệu truyền hình 3

a, Tính thời sự: 3

b, Tính khái quát: 4

c, Tính nghệ thuật: 4

III. Các yếu tố cấu thành của Phóng sự Truyền hình 5

1. Hình ảnh 5

a, Cỡ cảnh 6

b, Góc quay 6

c, Montage 7

2. Âm thanh 7

+ Âm thanh ngoài hình: 8

+ Âm thanh trong hình: 9

IV. Sự tương quan giữa hình ảnh và âm thanh trong PSTH 9

V. Quá trình sáng tạo Phóng sự truyền hình 10

1. Đề tài và chủ đề trong PSTH 11

2. Kế hoạch thựuc hiện - kịch bản 12

• Ghi hình 12

• Cỡ cảnh - tổng thể 13

• Viễn cảnh (Long Shot) 13

• Toàn cảnh (Wide shot) 13

• Cảnh cận (close shot) 13

• Cỡ cảnh - người 14

• Độ nét sâu 14

• Động tác máy 14

Lia máy 14

Lia theo chuyển động 15

Lia khảo sát (tìm tòi) 15

Lia nhanh 15

Lia dọc 15

Chuyển động lên thẳng (cần cẩu) 15

Chuyển động xuống thẳng (cần cẩu) 15

Zoom 15

Đẩy máy 15

Travelling 16

Góc quay 16

Bố cục 16

Nguyên lý một phần ba 16

Khuôn hình 16

Không gian "nhìn" (Looking room) 17

Cân bằng 18

Chuyển động trên màn hình 18

VI.Các bước làm phóng sự truyền hình 20

1. Khảo sát (liên hệ cơ sở) 20

2. Ghi chép 21

3. Tiến hành phỏng vấn khảo sát 21

VII. Kết cấu một PSTH 22

+ Nêu vấn đề: 23

+ Giải quyết vấn đề: 23

VIII. Một số Ví dụ kịch bản PSTH 27

Hiện trường một vụ phá rừng 28

Phỏng vấn anh Nguyễn văn Nam 29

Phỏng vấn ông Quới 31

Phỏng vấn anh Điểu Hiền 32

Phỏng vấn anh Điểu Nhanh 32

KẾT LUẬN 34

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3072 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phóng sự Truyền hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à âm thanh hiện trường được đặt lên hàng đầu. IV. Sự tương quan giữa hình ảnh và âm thanh trong PSTH Hình ảnh và âm thanh là hai thành tố cấu thành nên ngôn ngữ tổng hợp mang tính đặc thù của Truyền hình và Điện ảnh, nhưng việc xác định sự tương quan giữa chúng không phải là đơn giản. Việc xác định tầm quan trọng của mỗi thành tố sẽ quyết định tỉ lệ “đầu tư”, gia công, kết cấu của phóng viên khi xây dựng một PSTH nói riêng, một tác phẩm Truyền hình, Điện ảnh nói chung và điều quan trọng nhất là việc ảnh hưởng tới hiệu quả của việc truyền đạt thông tin. “Tác động đầu tiên của một chương trình tập trung vào mắt người xem, mắt thường xuyên mạnh hơn tai nghe, đặc biệt trong trường hợp giữa tai và mắt có sự nhận thức tương phản nhau đối với nhưũng thông điệp chúng nhận được. Những gì nghe được sẽ bổ trợ và nâng cao hiệu quả của hình ảnh”. Nội dung thông điệp truyền đạt trong bất kì một tác phẩm truyền hình nào cũng là sự tương hỗ giữa hình ảnh và âm thanh nhưng trong mỗi một tác phẩm vai trò của chúng lại khác nhau do sự khác biệt của từng thể tài quy định. “ Không thể đánh giá và xác định một cách tuyệt đối rằng ngôn ngữ từ đóng một vai trò như thế nào và hình ảnh đóng một vai trò như thế nào, trung tâm lực của một tác phẩm nằm ở đâu - ở trong chuỗi hình ảnh hay là chuỗi âm thanh. Đối với các loại phim khác nhau, câu trả lời cũng khác nhau…” PSTH với tư cách là một thể tài thuộc nhóm thông tấn với chức năng thông tin là chủ yếu, thì yếu tố lời bình (cả lời thoại) là số một. Hình ảnh và tiếng động hiện trường là sự minh chứng xác thực nhất những thông tin đề cập trong lời bình nhưng không vì thế mà lời bình lấn át hình ảnh trở thành một bài báo phát thanh ghép vào hình ảnh. Nếu không có hình ảnh thì không có truyền hình, nhưng thông tin mà hình ảnh đã chuyển tải thì lời bình không nên lặp lại mà phải đi sâu vào minh chứng cụ thể cho những gì khán giả chứng kiến trên màn ảnh. V. Quá trình sáng tạo Phóng sự truyền hình Sau khi có ý đồ truyền đạt một thông tin nào đó, chúng ta nghĩ tới việc làm một bộ phim, trước tiên chúng ta có thể có một ý đồ hay, làm cơ sở cho xây dựng phim. Chúng ta có thể phải truyền đạt một thông tin cụ thể về một chủ đề nào đó. Có thể chúng ta mong muốn bày tỏ một thái độ hoặc một tình cảm về đề tài. Công việc tiếp theo là làm như thế nào để có thể diễn đạt được những ý tưởng, thái độ hoặc tình cảm của chúng ta đối với người xem. 1. Đề tài và chủ đề trong PSTH Phạm vi phản ánh của PSTH cũng như của bất kì một thể tài báo chí nào là toàn bộ hiện thực khách quan. Nhưng không phải bất kì đối tượng nào của hiện thực cũng thành đối tượng phản ánh của PSTH, đó phải là những sự kiện thời sự nóng hổi, được nhiều người quan tâm hay những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện tại cần phải giải đáp. Nói một cách hình ảnh thì đối tượng của PSTH là hiện thực, bối cảnh có vấn đề. Thông qua PSTH người phóng viên truyền đạt đến công chúng một bức tranh chi tiết và diễn biến một sự kiện trọng đại, một biến cố hay một vấn đề trong quá trình phát sinh, phát triển, theo một ý đồ tư tưởng nhất định. Bất kì một hình thức thông tin nào thì bản thân nó cũng thể hiện khuynh hướng tư tưởng nào đó, PSTH cũng vậy và hơn thế nữa nó còn thể hiện một ý đồ cụ thể trong thông điệp của mình. Chức năng khám phá và định hướng của PSTH thể hiện qua đối tượng phản ánh của nó, có khi đó là một vấn đề mà dư luận xã hội đang quan tâm nhưng lại có ít thông tin hay hiểu biết sai lệch về nó, có khi là những vấn đề tiềm ẩn hay chưa nổi rõ mà phóng viên bằng tư duy nhanh nhạy trong việc nắm bắt, xử lí thông tin, phát hiện sự kiện vấn đề Đề tài PSTH xuất phát từ mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã hội mà từ đó các vấn đề, sự kiện nảy sinh cần được phát hiện và làm sáng tỏ. Việc xác định đề tài, chủ đề cho phóng sự là bứơc khởi đầu quan trọng không thể thiếu được của quy trình làm PSTH. Việc xác định đó cũng không phải là công việc đơn giản mà còn phụ thuộc vào khả năng tư duy phát hiện vấn đề của người phóng viên cho nên có thể xem việc phát hiện tốt đề tài, chủ đề đã quyết định một nửa thành công của PSTH. Sự kiện, vấn đề nêu ra trong phóng sự có được công chúng quan tâm, chú ý không là điều cần phải xác định trước khi xem xét, sự kiện, vấn đề đó được thể hiện như thế nào. 2. Kế hoạch thựuc hiện - kịch bản Xây dựng kịch bản là công việc đầu tiên sau khi xác định được đề tài, chủ đề phản ánh trong một PSTH. PSTH cũng như bất kì một tác phẩm truyền hình nào là một tác phẩm mang tính tập thể, là kết quả đóng góp của các khâu: Biên tập, quay phim và dựng hình. Sự xây dựng kịch bản chính là sự xác định những việc cần làm của các thành viên nói trên thông qua các bước: Quay, dựng, viết lời bình. Tuy nhiên, việc xây dựng kịch bản có thể thực hiện được một cách chi tiết, cụ thể đối với những phóng viên trong những chuyên đề, chương trình về các vấn đề có độ ổn định tương đối, việc khai thác thông tin, tài liệu xuất phát từ nhiều nguồn. Đối với loại phóng sự mà có người gọi là phóng sự tại chỗ việc xác định các bước, công việc cần làm được hình thành ngay tại hiện trường. Ghi hình Ai cũng có thể hướng máy quay phim vào một cảnh và mang về những hình ảnh quay có người và những hoạt động trong cảnh đó. Nhưng người cầm máy quay cần có nhiều kỹ năng hơn để có những hình ảnh "biết nói", thể hiện nôi dung câu chuyện, những hình ảnh ghi lại địa danh, không khí, tâm trạng, tính cách và kể đúng câu chuyện mà bạn muốn kể. Cách đầu tiên - quay tản mạn, ghi lại nhiều cảnh toàn. Hầu hết những cảnh đó đều cần thêm lời giải thích. Cách tiếp cận thứ hai đưa chúng ta gần với cách kể chuyện bằng hình ảnh hơn. Ở đây hình ảnh và tiếng động tự nhiên được lựa chọn cẩn thận và nếu có cần đến lời bình thì thường chỉ cần để tạo dựng bối cảnh và phân tích. Để đạt được điều này cần phải làm quen với ngôn ngữ khuôn hình và bố cục, động tác máy, ý nghĩa của góc quay và cỡ cảnh, và khả năng giao tiếp rõ rành với người quay phim. Cỡ cảnh - tổng thể Viễn cảnh (Long Shot) Cảnh xa, không chi tiết. Thường dùng ở đầu các trường đoạn. Toàn cảnh tạo lập địa điểm và tâm trạng. Nhưng nó thường tải nhiều thông tin khác và có thể làm người xem nhầm lẫn. Toàn cảnh (Wide shot) Cảnh rộng ghi nhận những hành động thích hợp. Cảnh cận (close shot) Tập trung vào chi tiết. Cận cảnh được xác định bởi hiệu quả của nó, chứ không phải cách thực hiện nó như thế nào. Nên ta có cảnh cận khi đưa máy vào gần chủ thể với ống kính góc rộng hay dùng ống kính tele từ đằng xa. Cảnh càng cận càng tạo điểm nhấn và giúp người xem dễ nhận biết phản ứng của chủ thể. Nhưng nhiều cảnh cận quá sẽ cướp đi sự nhận biết của người xem về không gian và thời gian. Một loạt các cảnh cận có thể là cách thể hiện hữu hiệu sự tò mò của người xem ở đầu các trường đoạn. Nhưng đừng chờ quá lâu trước khi trả lời câu hỏi quen thuộc - chuyện đó xảy ra đâu? Cảnh cận : đặc trưng của truyền hình Thậm chí một máy thu hình được coi là lớn thì cũng chỉ có màn hình tương đối nhỏ khi so với màn hình của một rạp chiếu bóng. Muốn thấy rõ các vật và hiểu ý nghĩa của chúng một cách nhanh chóng, thì các vật đó phải tỷ lệ tương đối lớn trên màn hình vô tuyến. Như vậy, bạn cần có nhiều cảnh cận và trung hơn những cảnh toàn. Cỡ cảnh - người Toàn cảnh (LS): Cảnh quay cả người. Trung cảnh (MS) : Cắt trên hoặc dưới thắt lưng. Trung cảnh hẹp (MCU): Cắt giữa ngực/túi áo ngực. Cận cảnh (CU): Cắt quanh vai. Cận đặc tả (BCU): Mép hình phía trên cắt ngang trán, mép phía dưới thường cắt như cảnh cận, nhưng có thể cắt ngang cằm. Quay cảnh người còn được xác định bởi số người: cảnh đơn, cảnh quay đôi, ba, hay nhóm. Độ nét sâu Bao nhiêu phần của cảnh nằm trong tầm nét. Độ mở ống kính nhỏ (ví dụ: f11) cho hình ảnh sắc nét trong phạm vi rộng từ gần đến xa (độ nét sâu), máy dễ dàng theo chủ thể mà không lo hình ảnh bị ra khỏi tầm nét (mất nét). Đồng thời, nó tạo cảm giác về không gian và chiều sâu, nhưng có thể làm cho ảnh bẹt và không hấp dẫn. Sử dụng độ mở ống kính rộng hơn sẽ giảm phạm vi nét từ tiền cảnh đến hậu cảnh (độ nét nông). Đây là một kỹ thuật tốt để cô lập chủ thể, làm nó nổi bật khỏi hậu cảnh mờ nhạt. Động tác máy Lia máy Máy chuyển động ngang quanh một trục cố định tạo lập quan hệ giữa chủ thể và vật. Chúng ta cho người xem biết về địa điểm. Nhưng hãy cẩn thận với những cú lia mà hình ảnh ở đầu và cuối thì hấp dẫn, nhưng ở giữa lại buồn tẻ hay có không gian chết. Lia theo chuyển động Giống như tất cả các động tác máy, động tác lia chỉ có hiệu quả khi nó có nguyên do. Lia máy theo chuyển động như cái tên của nó thực sự cần thiết khi phải theo một vật chuyển động. Lia khảo sát (tìm tòi) Máy quay tìm kiếm một ai đó hay người nào đó trong một cảnh. Bạn phải xác định được động cơ của chuyển động này. Lia nhanh Máy quay chuyển động nhanh đến nỗi hình ảnh bị mờ nhoè. Lạm dụng sẽ làm mất giá trị của động tác máy này. Người ta thường dùng lia nhanh khi muốn. Thay đổi trọng tâm của sự chú ý. Con thuyền rời đi, lia nhanh tới nơi thuyền đến. Mô tả nguyên nhân và hiệu quả. Khẩu súng nhằm bắn, lia nhanh đến mục tiêu. So sánh và tương phản. Mới và cũ, giàu và nghèo. Lia dọc Chuyển động máy quay dọc theo trục cố định. Lia dọc lên phía trên tạo sự mong đợi và cảm giác phấn chấn. Lia dọc xuống phía dưới gợi ra sự thất vọng và sự buồn rầu, và tình cảm u uất. Chuyển động lên thẳng (cần cẩu) Chuyển động của máy quay thẳng đứng trên một mặt phẳng. Chuyển động này làm nổi bật hành động chính hay giảm sự chú ý vào tiền cảnh. Chuyển động xuống thẳng (cần cẩu) Ngược lại với chuyển động lên thẳng. Máy chạy dọc xuống trên một mặt phẳng. Zoom Thay đổi cỡ cảnh bằng cách thay đổi tiêu cự ống kính. Động tác zoom máy thay đổi quan hệ giữa chủ thể và hậu cảnh. Đẩy máy Thay đổi cỡ cảnh bằng cách đẩy máy tiến vào gần hoặc ra xa khỏi chủ thể. Giữ nguyên quan hệ giữa chủ thể và hậu cảnh. Travelling Khảo sát một vật hay theo một vật chuyển động bằng cách chuyển máy song song với vật. Góc quay Quay từ dưới lên: chủ thể trông đường bệ hơn, mạnh mẽ hơn, có dáng vẻ đe doạ. Quay từ trên xuống: chủ thể trông kém đường bệ, thấp bé và có vẻ bất lực. Bố cục Bố cục là sự sắp xếp thông tin trong một khuôn hình. Bạn tìm cách thu hút sự tập trung của người xem vào một vùng nào đó của hình ảnh, và giảm thiểu hay loại bỏ những chi tiết làm mất tập trung. Nguyên lý một phần ba Là một nguyên lý đơn giản, nhưng hiệu quả nhất, nguyên tắc bố cục. Nguyên lý này nêu một màn hình được chia đôi hay chia bốn sẽ cho những hình ảnh tĩnh và tẻ; một màn hình được chia ba theo chiều ngang và chiều dọc sẽ cho bố cục năng động và hấp dẫn hơn. Đường chân trời không nên đặt ngang giữa khuôn hình. Nó phải ở 1/3 khuôn hình phía trên hoặc phía dưới, tuỳ theo ý định nhấn mạnh bầu trời hay mặt đất (biển). Các chi tiết quan trọng nằm dọc được đặt ở vị trí 1/3 màn hình theo chiều dọc. Và nếu khu vực 1/3 theo chiều ngang và chiều dọc quan trọng thì các tâm điểm nơi chúng giao nhau còn quan trọng hơn. Những giao điểm này dành cho những chi tiết quan trọng trong khuôn hình. Ví dụ: đôi mắt trên khuôn mặt. Khuôn hình Ở đây có hai quyết định. Đưa cái gì vào. Loại cái gì ra. Bạn có thể loại bỏ những chi tiết làm mất tập trung hay giấu người xem một số thông tin để rồi sẽ tiết lộ trong những cảnh tiếp theo. Trung tâm màn hình là khu vực ổn định và hiệu quả khi muốn nhấn mạnh một đối tượng đơn lẻ (như một phát thanh viên trong một cảnh đơn giản). Nhưng khi có những điểm nhấn khác trong khuôn hình thì trung tâm màn hình là khu vực yếu, ít duy trì được sự tập trung của người xem. Các mép màn hình thì giống như những nam châm. Chúng hút những vật đặt quá gần chúng. Các góc của màn hình có xu hướng hút chủ thể ra khỏi khuôn hình. Hãy tránh để mép khuôn hình cắt ngang các khớp tự nhiên của cơ thể người như cắt ngang khuỷu tay, ngang thắt lưng hay ngang đầu gối. Không gian thở của hình (Headroom - khoảng cách phía trên đầu đến mép màn hình). Không nên để hình một người đầy chặt tới đỉnh của khuôn hình. Khoảng cách quá ít làm cho hình ảnh bị gò bó và chật hẹp. Nếu khoảng cách này lớn khuôn hình sẽ mất cân đối và nặng đáy. Không gian thở sẽ thay đổi theo cỡ cảnh. Toàn cảnh (LS) cần nhiều không gian hơn trung cảnh (MS), và tiếp đó, trung cảnh (MS) lại nhiều hơn trung cận hẹp (MCU). (Khoảng cách này khoảng 1/10đến 1/8 chiều dọc khuôn hình. (ghi chép tại lớp học kỹ thuật truyền hình - Reuters, Hà nội, 19-23/11/2001. Người dịch). Một ngoại lệ duy nhất trong luật "không gian thở của hình" là cận đặc tả BCU; với cỡ cảnh này mặt người đầy màn hình, mép hình cắt qua trán và có thể qua cằm. Không gian "nhìn" (Looking room) Người ta thường nhìn sang phải hay trái của khuôn hình trừ phi nhìn thẳng vào máy quay. Họ muốn nhìn về phía nào thì cần có một khoảng không gian để nhìn vào đó. Đây gọi là "không gian nhìn". Ở đây phần màn hình trước mặt họ phải lớn hơn phía đằng sau họ. Nếu mũi một người sát mép hình, hay gần quá sẽ làm cho cảnh quay gò bó. Hình người càng nghiêng (profile) thì khoảng nhìn phải càng lớn để duy trì sự cân bằng. Cũng tương tự như vậy đối với một người đi bộ, cưỡi ngựa hay lái xe trong cảnh. Cân bằng Sự cân bằng xoay quanh trung tâm hình ảnh. Những hình ảnh đẹp thường có sự cân bằng trong khuôn hình. ( Nhưng không nhất thiết phải ngay hàng thẳng lối hay đối xứng vì hình đối xứng thì tĩnh và buồn tẻ). Một vật hay một tông màu (bức tường xám, bóng nặng nề) ở một bên của khuôn hình cần được cân bằng bởi một tông màu tương xứng ở phía đối diện của khuôn hình. Sự cân bằng này được tạo bởi một vật lớn hay nhiều vật nhỏ hợp lại. Hãy ghi nhớ tông màu tối trông nặng nề (phải nhỏ hơn) tông màu sáng. Vì vậy một vùng tối nhỏ có thể dùng để cân bằng một vùng sáng lớn hơn. Tông màu tối ở đáy khuôn hình tạo sự ổn định. Ở đỉnh khuôn hình, chúng tạo hiệu quả của một không gian đóng kín và ngột ngạt. Chuyển động trên màn hình Chuyển động vào gần hay ra xa máy quay thì mạnh hơn chuyển động ngang. Đối với chuyển động ngang phải lấy khuôn hình cẩn thận, chừa đủ không gian nhìn hay không gian thở cho hành động khác (đi, cưỡi ngựa hay lái xe). Ánh sáng (một vài thuật ngữ chủ yếu) Ánh sáng chủ: nguồn sáng chính chiếu vào chủ thể. Ánh sáng chung: nguồn sáng tản để giảm bóng hay sự tương phản tạo ra bởi ánh sáng chủ. Ánh sáng ngược: nguồn sáng chiếu phía sau hay một bên của chủ thể giúp tách đầu, tóc hay vai khỏi phông (tạo khối cho chủ thể). Ánh sáng phông: nguồn sáng chiếu để nhận biết một vùng trên phông. Phương pháp ghi hình Nắm được phương pháp ghi hình giúp bạn chớp đúng thời điểm thích hợp nhất. Nếu bạn không muốn bị gò bó hãy sử dụng cách quay tường thuật (Verité) hơn là quay theo sự sắp xếp các trường đoạn cảnh. Quay theo trường đoạn cảnh buộc bạn làm việc theo một trình tự nhất định và giảm thiểu sự hứng trí. Quay theo trường đoạn (Sequences) Loạt các cảnh quay khác nhau khi dựng cho ấn tượng về hành động. Duy trì sự liên tục. Rút ngắn thời gian. Kể chuyện. Trông có vẻ dàn dựng. Dễ thêm lời bình. Có thể kiểm soát được - an toàn. Bạn biết bạn muốn gì. Quay theo trình tự dựng (Montage) Loạt các cảnh chộp hình (snapshots). Không có sự liên tục giữa các cảnh. Tạo tiết tấu. Hữu hiệu với hành động/phản ứng. Đòi hỏi người xem tập trung hơn - hình ảnh phải mang nhiều thông tin hơn. Ít cần tới lời bình. Có thể kiểm soát nhưng mất nhiều thời gian. Quay tường thuật (Verité) Sự kiện diễn ra đúng như trong thực tế cả về mặt thời gian và không gian. Dựng tối thiểu. Ấn tượng mạnh. Mất nhiều thời gian. Tỷ lệ thất bại cao. Kết quả khó dự đoán trước. Lời bình cần ở mức tối thiểu. VI.Các bước làm phóng sự truyền hình 1. Khảo sát (liên hệ cơ sở) Mọi tin bài chỉ thành công khi có tiến hành khảo sát. Bạn là 1 phóng viên giỏi phỏng vấn, hay được làm việc với nhà nhiếp ảnh tài ba, hay có kỹ năng viết bài tuyệt vời - tất cả những điều đó chẳng là gì nếu như công việc khảo sát được tiến hành không tốt. Thiếu tìm hiểu, khảo sát kỹ, chúng ta không có nhiều sự lựa chọn và không thể định rõ trọng tâm của câu chuyện (tin - bài). Tuy nhiên, trước khi bắt đầu khảo sát, chúng ta cần định nghĩa rõ ràng thế nào là 1 câu chuyện (tin - bài) hay. Định nghĩa này sẽ khác nhau giữa các đài truyền hình và giữa các tổ chức. Thậm chí ngay trong một đài truyền hình, nó cũng có thể khác nhau giữa các chương trình. Câu chuyện có thể khác nhau, nhưng các bạn có thể hỏi những câu sau với bất cứ câu chuyện nào: Có phù hợp không? Có độc đáo không? Có gây cảm xúc không? Có ảnh hưởng đến người dân không? Họ có quan tâm không? Người ta có nói về chuyện đó không? Có phù hợp với mục đích của chương trình hay không? Có thể làm được không? ( đã có nguồn nào để làm? Có tiếp cận được không? Có đủ thời gian không? Có đủ tài chính không?) Và sau đó quá trình khảo sát mới bắt đầu. Trước hết xin nhớ 2 điều: Không giả định điều gì. Kiểm tra mọi thứ. Khảo sát là tìm cách lấy (moi) thông tin từ các mối liên hệ của bạn. Đây không phải là những dịp chứng tỏ mình thạo tin đến đâu. Và bạn càng tỏ ra ít hiểu biết hơn thì bạn càng có cơ hội đánh giá đúng khả năng giải thích vấn đề một cách đơn giản của người bạn phỏng vấn. 2. Ghi chép Bạn phải tìm cho mình một phương pháp tốt nhất. Cách an toàn nhất là dùng một máy ghi âm nhỏ. Hãy hỏi trước và nếu người bạn phỏng vấn cảm thấy không thoải mái thì đừng dùng máy. Nhưng nếu người bạn phỏng vấn không quen trả lời để ghi âm thì sẽ ra sao khi đội quay phim xuất hiện? Bạn đừng ngần ngại khi phải ghi chép, trừ khi nó làm cho người chúng ta tiếp cận lo lắng. Trong trường hợp đó hãy tập trung cao để ghi nhớ, và ghi chép lại vào lúc sớm nhất. Và không quên những thông tin cơ bản - tên, địa chỉ, số điện thoại. Hãy kiểm tra chính tả (không bao giờ viết sai tên họ người mình tiếp xúc.) Tên người bị viết sai chính tả sẽ hạ uy tín chương trình của bạn và bản thân bạn một cách nhanh nhất. 3. Tiến hành phỏng vấn khảo sát Tự giới thiệu Giới thiệu mình một cách rõ ràng. Cho biết tại sao bạn liên hệ với họ. Giải thích cho biết bạn cần giúp đỡ. * Trong khi trao đổi Đặt các câu hỏi mở - đóng - Ai, cái gì, khi nào, ở đâu, tại sao, như thế nào? Đặt câu hỏi đơn giản. Biết mình muốn có những thông tin nào. Hãy tỏ ra lịch sự, quan tâm và muốn tìm hiểu. Đừng tỏ ra hung hăng - bạn muốn biết thông tin, chứ không tranh luận. Đừng biến nó thành chuyện riêng tư. Hãy đưa ra các quan điểm trái ngược từ phía những người cung cấp thông tin khác. ("Hôm qua, ông X nói . . . Bạn trả lời như thế nào?) Ghi chép. Hãy hỏi thêm để làm rõ những gì bạn nắm chưa chắc. Kết thúc cuộc trao đổi Kiểm tra tên, chức vụ, số điện thoại. Kiểm tra xem người được phỏng vấn ở đâu trong vài ngày/tuần tới. Hỏi xem họ có thể giới thiệu những người khác để bạn có thêm thông tin. Cảm ơn họ và nói bạn có thể đến hoặc gọi lại. Là người khảo sát (liên hệ) phải luôn ghi nhớ những điểm sau: Hãy chú ý đến chi tiết. Kiểm tra kỹ tên, địa chỉ, chức vụ và số điện thoại. Hãy nói chuyện với người được phỏng vấn. Đừng tin những người không biết mà chỉ tưởng tưởng là những người nói hay. Hãy suy nghĩ về hình ảnh. Hình ảnh nào sẽ giúp thể hiện câu chuyện? Hãy dự đoán trước những trắc trở. Tiếng ồn, an ninh, cấm đường, phong tục tập quán địa phương. Giữ gìn những ghi chép. Trả lại tất cả các bức ảnh và tài liệu đã mượn. Kiểm tra sự tín nhiệm của các nhà chuyên môn. Hãy duy trì các mối liên hệ. VII. Kết cấu một PSTH Đối với loại PSTH, những người làm phim chỉ có thể hình dung được công việc phải làm một cách sơ bộ chứ không rõ ràng như ở phim dàn dựng. Chỉ có thực tế hiện trường nơi sự việc xảy ra vấn đề nảy sinh mới trả lời câu hỏi phải làm gì, làm như thế nào cho người làm phim phóng sự. Do đó kết cấu của một PSTH không chỉ được nảy sinh trong khâu xây dựng kịch bản mà chủ yếu được hoàn thiện trong quá trình quay phim và hậu kì. Kết cấu một PSTH không chỉ dựa trên ý đồ của người làm phim mà còn chịu tác động không nhỏ của chất liệu khách quan: Những hình ảnh và âm thanh mà tổ làm phim thu đựoc tại hiện trường tuỳ thuộc vào nội dung vấn đề cụ thể nêu ra trong PS. Kết cấu một phóng sự truyền hình là sự phân chia, bố trí các phần, bộ phận của hình ảnh và âm thanh có được để thể hiện nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Kết cấu một PSTH tốt thì người xem dễ dàng nhận biết được vấn đề sự kiện mà tác giả đặt ra cũng như ý đồ của tác giả ra sao và ngước lại. Dù đề cập vấn đề sự kiện theo một kết cấu nào thì trong thành phần kết cấu của một PSTH nào cũng có 3 phần: + Nêu vấn đề: Nêu bối cảnh, giới thiệu vấn đề nảy sinh, nguồn gốc xảy ra sự kiện, phần này có thể là lời dẫn cho phát thanh viên đọc hay phóng viên thể hiện trước ống kính, nhiều khi phần nêu vấn đề nằm ngay trong thành phần lời bình. Dù không phải là chứa đựng lượng thông tin chủ đạo nhưng vai trò của phần mở đầu không thể bỏ qua. Theo kinh nghiệm của phóng viên Lại Văn Sâm: "Nên bắt đầu phóng sự bằng một cái gì bất thường để thu hút sự chú ý của người xem về vấn đề mà mình sẽ đặt ra bởi vì khi người ta bắt đầu một chương trình phỉa gây được ấn tượng, tạo ra sự chú ý của người xem bằng những tình huống gay cấn thu hút người xem, và do vậy "Tít" của Phóng sự cũng rất quan trọng." + Giải quyết vấn đề: Đây là thành phần chứa đựng lượng thông tin chính thể hiện ý đồ của ngươì làm phóng sự. Trong phần này tác giả nêu lên mâu thuẫn của vấn đề, diễn biến của sự kiện trong quá trình phát sinh, phát triển. Qua việc trần thuật cho khán giả, tác giả phỉa thể hiện một quan điểm nhất định thẩm định sự kiện, vấn đề với một chính kiến của mình; hay nói một cách có hình ảnh - là sự bộc lộ "cái tôi" trần thuật, nhân chứng, thẩm định hiện thực; đồng thời đưa ra biện pháp giải quyết mâu thuẫn của vấn đề, đề đạt nhưũng kiến nghị… + Kết của PSTH - Có thể bằng lời dẫn do phát thanh viên dẫn hay có thể là phóng viên xuất hiện trước ống kính để thâu tóm lại nội dung tư tưởng chính của PSTH, nhấn mạnh lại vấn đề. Nhà báo Trường Phước cho rằng; "Nếu như mở đầu PSTH giống như việc mở cửa phải có cách chào hỏi chủ nhà như thế nào để thu hút chủ nhà vào câu chuyện mình sắp kể, thì kết thúc cũng giống như việc lưu luyến cho lần đến chơi sau" Bên cạnh đó, còn có các PSTH theo kiểu truyền hình trực tiếp (Phong cách tường thuật) không theo cách kết cấu cổ điển như vậy. Trong trường hợp này bản thân tiến trình sự kiện là kết cấu, điều đó không có nghĩa là sự sao chụp. Kết cấu kiểu này hình thành không qua sắp xếp chi tiết mà qua cắt gọn, chọn lọc các chi tiết. Kết cấu là một nguyên nhân khiến nhiều câu chuyện không được hay như ý muốn. Những chi tiết của vấn đề hóc búa có thể có ý nghĩa với tác giả đã tiến hành khảo sát, đã phải trăn trở và cuối cùng đã ghép nối các chi tiết này với nhau. Tác giả hiểu rõ câu chuyện, và chính vì thế mà những ghép nối có hiệu quả. Nhưng những đoạn ghép nối chẳng có ý nghĩa gì đối với người nghe thông tin này lần đầu tiên. Vì vậy, bạn phải kết nối những phát hiện sau khảo sát một cách đơn giản dễ hiểu nhất. Hầu hết các câu chuyện đều phát triển theo hướng có thể dự đoán trước. Trước hết, sự chú ý của người nghe bị thu hút bởi một mẩu tin lý thú, một đoạn trích phỏng vấn, hay một âm thanh, hay một hình ảnh. Nguyên tắc vĩnh cửu của người rao hàng trong những ngày hội là trước tiên phải đưa được khách hàng vào lều của mình. Sau đó thông tin mà họ cần biết được truyền đạt một cách đơn giản và nhanh nhất. Có thể giới thiệu (các) nhân vật chính, có thể là một chút về bối cảnh hoặc có thể là một chút về cả hai yếu tố này. Bối cảnh là nơi các câu chuyện sống và chết ở đó. Nếu phần này quá sơ sài thì làm phần còn lại trở nên khó hiểu. Nếu quá chú trọng, quá sâu vào bối cảnh, người xem sẽ chuyển sang kênh khác. Sau đó, câu chuyện mở ra. Xung đột được bộc lộ. Hầu hết những câu chuyện hấp dẫn đều xoay quanh một ai đó cố gắng vượt qua trở ngại khó khăn, ngoại cảnh hay nội tâm. Tranh chấp với hàng xóm, đấu tranh chống quan liêu, với bệnh tật nghiệt ngã. Trong phần này người viết cần tìm ra cách đưa sự căng thẳng đến tột đỉnh. Cuối cùng các mâu thuẫn được giải quyết. Trong phim truyện phần này được gọi là đoạn kết. Còn trong tin bài thời sự nó có thể là phần tóm tắt các điểm chính hay là gợi mở cho giai đoạn tiếp sau. Tóm lại ta có 4 phần sau: Câu (sự chú ý). Bối cảnh. Diễn biến (phát triển nội dung câu chuyện) Kết ( tóm tắt điểm chính hoặc gợi mở) Việc sắp xếp các thành phần kết nối trên một biểu đồ như thế này giúp tập trung sự chú ý vào một số vấn đề sau: Chúng ta cần câu sự chú ý một cách ấn tượng. Ở đây, âm thanh đóng vai trò rất quan trọng. Chính nó làm cho chúng ta quay lại nhìn vào vô tuyến khi tâm trí ta không tập trung. Thường thì ảnh hưởng của hình ảnh giảm xuống khi ta vào phần bối cảnh. Điều này không tránh được vì bối cảnh thường là tư liệu (những thông tin chuẩn bị trước, tư liệu lịch sử hay mô tả những vấn đề). Các nguồn hình ảnh thông thường của ta là những thước hình tư liệu hay đồ hoạ. Bối cảnh là phần quan trọng. Vì thiếu nó chúng ta không thể hiểu diễn biến câu chuỵện. Nhưng nếu nó quá dài hay quá sâu, người xem sẽ tắt máy thu hình. Các câu chuyện sống và chết cùng bối cảnh. Vì vậy, hãy cố gắng viết tốt nhất, viết chặt chẽ và chọn hình ảnh cẩn thận. Diễn biến là nơi những lý lẽ xung đột (mâu thuẫn) được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTBC 30.doc