Tiểu luận Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam trong năm 2008

Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số này của năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải lên tiếng. Để giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có nhiều buổi tọa đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Qua đó đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát, nguyên nhân của lạm phát, cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm phát. Bài viết này đề cập về các nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc phục.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2922 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Qua cơ sở lý luận về lạm phát.phân tích tình trạng lạm phát và các biện pháp ở Việt Nam trong năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn được giá cả. Nếu không nhận thức phù hợp về vấn đề này sẽ không giải quyết được vấn đề giá cả chứ không phải cứ thắt chặt giá cả là đúng… Chúng ta nên hướng dẫn người dân quen dần với tình hình mới, đó cũng là đặc điểm của môi trường hội nhập”. Trong thực tế, chúng ta chưa tính toán lạm phát cơ bản nên chưa thể xác định được rõ ràng và đầy đủ xu hướng lạm phát ở Việt Nam. Hơn thế nữa, chỉ số giá tiêu dùng CPI hiện nay đang được tính trên cơ sở rổ hàng hóa dịch vụ cùng với các quyền số tương ứng cơ cấu chi tiêu tiêu dùng của các hộ gia đình Việt Nam đã được Tổng cục Thống kê khảo sát điều tra từ trước năm 2000. Đã hơn 3 năm trôi qua, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ta đã có nhiều đổi thay đáng kể và một điều tương đối chắc chắn là các mức quyền số đó sẽ không thể còn duy trì được mãi ở mức đã cố định từ năm gốc 2000. Nếu theo đúng định kỳ 5 năm thì rổ hàng hóa dịch vụ cùng các mức quyền số kết cấu nên chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam sẽ phải được xác định lại trong năm 2005. Đồng thời, trong xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính – tiền tệ khu vực và quốc tế, cùng với Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ sớm xác định, tính toán lạm phát cơ bản bên cạnh lạm phát thông thường để đưa vào áp dụng trong công tác dự báo xu hướng lạm phát và điều hành chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Phương pháp xác định lạm phát cơ bản ban đầu có thể dựa vào nguyên lý tính xác suất thống kê theo mô hình kinh tế lượng trên cơ sở các dãy số lịch sử vì các nguyên nhân sau: - Cũng giống như nhiều nước đang phát triển, Việt Nam chỉ có thể dùng một số lượng hạn chế các nguồn lực con người và vật chất vào việc điều tra, khảo sát để tạo dựng các chỉ số giá cả chính thức, cho nên các quyền số và các mức giá cả đã được tính toán, xác định kém chính xác hơn nhiều so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến. - Cùng với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, các mô hình chi tiêu tiêu dùng cũng sẽ nhanh chóng thay đổi theo nhu cầu vật chất tinh thần của người dân cho nên các quyền số dù có được xác định lại khá chính xác thì rồi cũng sẽ rất nhanh chóng bị lỗi thời theo thời gian. - Cũng như phần lớn các nước đang phát triển khác, chỉ số CPI của Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu phải chịu sự chi phối của mức giá lương thực – thực phẩm là mức giá hay biến đổi mạnh đột biến, mang tính nhất thời trong ngắn hạn. Khi tính toán lạm phát cơ bản ta có thể dùng phương pháp loại trừ có chọn lọc chỉ số một số loại giá lương thực thực phẩm nhất định ở các nhóm cấp thấp (nhóm cấp II hoặc / và cấp III) để không gây ảnh hưởng đáng kể tốc độ xác thực trong dự báo xu hướng lạm phát chung của nền kinh tế. - Cùng với sự gia tăng phí điều tiết giá cả cũng như tăng cường cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân thì cả mặt bằng giá lẫn các hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực tư nhân và trong cả nền kinh tế sẽ nhanh chóng thay đổi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng bình đẳng và lành mạnh hơn. III.LẠM PHÁT NĂM 2008 SẼ LÊN TỚI 22,3 . (Dân trí) - Theo dự báo của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TƯ, lạm phát năm nay, xét đến kịch bản xấu nhất có thể lên tới 22,3%, trong khi kinh tế Việt Nam khó tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao như năm 2007.Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt 8,5%, theo đánh giá của bản báo cáo, “cũng khó có thể nói đó là một con số thật ấn tượng”, dù đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1997.Bởi con số này không ghi nhận sự đột phá so với các năm liền kề 2005 - 2006 và tỷ lệ đầu tư so với GPD năm 2007 quá cao, chiếm tới 44%. Cuối năm 2007, thời điểm đánh dấu tròn một năm Việt Nam trở thành thành viên WTO. Thời gian một năm là quá ngắn để có thể đánh giá và nhìn nhận đầy đủ tác động của việc gia nhập WTO đối với tiến trình cải cách bên trong và nền kinh tế Việt Nam. Nhưng việc gia nhập WTO đã phần nào làm “lộ rõ những yếu kém, bất cấp cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, nhất là đối với việc đảm bảo sự phát triển nhanh, vững bền” - báo cáo nhấn mạnh.Theo TS.Võ Trí Thành, sự sôi động của thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng và thị trường bất động sản năm qua ít chuyển hóa sang nền kinh tế thực; khu vực tài chính, ngân hàng và bảo hiểm vẫn chiếm chưa tới 2% GDP. Điều này đang là lời cảnh báo về chất lượng tăng trưởng, chất lượng đầu vào của nền kinh tế. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp lớn tăng 5,7% cũng là dấu hiệu bất thường, bởi một phần vốn rất lớn của các doanh nghiệp này đã không dẫn vào các kênh sản xuất kinh doanh tạo sản phẩm thật mà chủ yếu đổ vào các kênh đầu tư ảo: chứng khoán, bất động sản… Ngược lại, tốc độ tăng tiêu dùng của người dân Việt Nam đang cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng GDP. “Bình quân đầu người năm qua đạt khoảng 841 USD/người/năm, trong khi tốc độ tiêu dùng của người dân lại đang cao hơn rất nhiều. Điều này dẫn tới tiết kiệm nội địa năm 2007 bị chững lại. CHƯƠNG II.MỐI LO NGẠI ĐẾN NẾN KINH TẾ HIỆN NAY I.LẠM PHÁT – MỐI QUAN NGẠI CHỦ YẾU CỦAVIỆT NAM NĂM 2008 “Sức ép lạm phát sẽ là mối quan ngại chủ yếu của Việt Nam năm 2008”. Đây là thông điệp được đưa ra trong báo cáo khảo sát kinh tế xã hội năm 2008 do UB Kinh tế xã hội châu Á - Thái  Bình Dương (ESCAP) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong phần khảo sát về Việt Nam, báo cáo của ESCAP bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ tiếp tục dẫn đầu về tăng trưởng kinh tế ở khu vực Đông Nam Á. Tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao, tỷ lệ đầu tư lớn, tỷ giá ổn định giữa tình hình chung bất ổn và dự trữ ngoại tệ ở mức cao là những tín hiệu phát triển tích cực chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên, ESCAP bày tỏ mối quan ngại khi tỷ lệ lạm phát ở mức cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn. Theo báo cáo, Việt Nam nằm trong số các nước châu Á – TBD đang phát triển chịu ảnh hưởng từ sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ cũng như các khu vực phát triển khác và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế được dự báo có thể sẽ giảm tốc xuống dưới 8% năm 2008. Cơ quan của LHQ cho rằng, Đông Nam Á vẫn phụ thuộc xuất khẩu vào Mỹ nên tỷ lệ tăng trưởng trung bình của khu vực sẽ giảm xuống 5,8% so với 6,2% của năm 2007. ESCAP khuyên các chính phủ châu Á, trong đó có Việt Nam, nên giữ sự ổn định và đầu tư vào nông nghiệp để vượt qua “cú sốc kinh tế” có nguồn gốc từ sự suy thoái của kinh tế Mỹ. Shigeru Mochida, Phó Tổng thư ký ESCAP, cho rằng việc gia tăng sản xuất nông nghiệp sẽ giúp đưa 280 triệu người thoát khỏi đói nghèo khi giá cả lương thực đang tăng chóng mặt. Cuộc khảo sát năm nay của ESCAP tập trung vào thất bại của các nước trong cuộc chiến chống đói nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và cho rằng nguyên nhân chính là do sự “thờ ơ” của các chính phủ đối với nông nghiệp trong hai thập kỷ qua. Báo cáo cho biết, dù kinh tế tăng trưởng cao, nhưng tại khu vực châu Á – TBD vẫn còn 641 triệu người sống ở mức ít hơn 1 USD/ngày, chiếm 2/3 số người nghèo trên toàn thế giới. Tuy nhiên, theo ESCAP, Thái Lan và Việt Nam là những điểm sáng trong khu vực. Thái Lan thực hiện chính sách tăng cường đầu tư sản xuất nông nghiệp, nên sẽ là một trong số ít nền kinh tế có mức tăng trưởng kinh tế năm 2008 cao hơn năm 2007. Trong khi đó, ESCAP đánh giá Việt Nam có tiềm năng lớn để tăng tốc phát triển trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo báo cáo, nông nghiệp trở thành yếu tố quan trọng giúp giảm đói nghèo ở Việt Nam, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Cơ quan của LHQ dự báo việc gia tăng năng suất trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ giúp Việt Nam giảm nhanh hơn nữa tỷ lệ đói nghèo. Tuy nhiên, ESCAP cũng bày tỏ lo ngại rằng việc áp dụng công nghệ chậm, ngành công nghiệp chế biển sản phẩm nông nghiệp có ít tiến bộ, cùng với thiên tai dịch bệnh và những tác động không mong muốn từ giá cả toàn cầu sẽ là những thách thức lớn của Việt Nam trong năm 2008. II.VAI TRÒ TRONG KINH TẾ 1.Các hiệu ứng tích cực Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ông dùng từ "dầu bôi trơn" để miêu tả tác động tích cực của lạm phát. Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Điều này khuyến khích nhà sản xuất đầu tư mở rộng sản xuất. Việc làm được tạo thêm. Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm. 2.Các hiệu ứng tiêu cực Đối với lạm phát dự kiến được Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội: Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.     * Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm. * Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô. * Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.     * Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình. Đối với lạm phát không dự kiến được Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn. CHƯƠNG III:MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC QUẢN LÝ,KIỂM SOÁT.KIỀM CHẾ LẠM PHÁT I..NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG LẠM PHÁT Tình hình giá cả và lạm phát ở Việt Nam thời gian qua, đặc biệt là những biến động bất thường trong năm 2004 đẩy chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) lên 9,5% (trong khi chỉ số này của năm 2003 là 3%), vượt xa con số 5% theo kế hoạch đề ra, đã buộc công luận phải lên tiếng. Để giải tỏa những bức xúc của dân chúng và các nhà sản xuất kinh doanh, đã có nhiều buổi tọa đàm, cuộc hội thảo được tổ chức và được các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Qua đó đã toát ra nhiều vấn đề còn tranh cãi về quan điểm về lạm phát, nguyên nhân của lạm phát, cách tính chỉ số lạm phát, các giải pháp nhằm khắc phục lạm phát. Bài viết này đề cập về các nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp cơ bản khắc phục. Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có vị trí quan trọng hàng đầu trong điều hành chính sách của mỗi một quốc gia. Đây cũng là một ttrong hai mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương các nước đều hướng tới. Khái niệm chung về lạm phát được khoa học kinh tế đưa ra là sự tăng giá chung theo thời gian, khi đó mặt bằng chung về giá cả hàng tiêu dùng trên thị trường tăng lên. Còn lạm phát tiền tệ hoặc lạm phát giá cả được gọi theo cách nhìn nhận ở góc độ nguyên nhân của lạm phát. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết, biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ. Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy). Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ. A.Chống lạm phát ở Việt Nam: Tìm đúng nguyên nhân mới có giải pháp tích cực Kiềm chế lạm phát để ổn định kinh tế ở nước ta đang là vấn đề bức xúc. Lạm phát đang diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó, đặc biệt quan trọng là nguyên nhân tỷ giá, là yếu tố phản ánh biến động kinh tế cả trong nước và quốc tế. Trên cơ sở nhấn mạnh định lượng về lạm phát, tác giả đã kiến nghị một số giải pháp để góp phần kiềm chế lạm phát ở nước ta. 1 - Chế độ tỷ giá hiện hành là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003 - 2007 (8%/năm), là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Trong các báo cáo gần đây, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên nhân gây ra những yếu kém kinh tế trong thời kỳ này. Cụ thể là, "cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ. Công tác dự báo và dự kiến các biện pháp, kế hoạch ứng phó với những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan nghiên cứu, tham mưu của Đảng và Nhà nước phát hiện tình hình còn chậm; khi tình huống xảy ra, do chưa có kinh nghiệm và chủ động trong việc ứng phó nên chỉ đạo, xử lý của một số ngành chức năng có lúc còn lúng túng, chưa kịp thời, thiếu phối hợp đồng bộ, thiếu linh hoạt. Có chính sách, giải pháp chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội."(1) Chỉ ra được nguyên nhân, nhưng chúng ta vẫn lúng túng trong điều hành ổn định kinh tế vĩ mô là do chưa có một đánh giá định lượng cụ thể để lượng hóa tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới các biến số kinh tế vĩ mô, từ đó sử dụng các công cụ chính sách phù hợp để điều hành nền kinh tế. Vậy vấn đề là lượng hóa các nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng tới tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay và đề xuất công cụ phù hợp để đối phó với lạm phát trong hoàn cảnh hiện tại. Các phân tích dưới đây sẽ chỉ ra rằng những nhược điểm của một chế độ tỷ giá neo với đồng USD và mất cân đối cơ cấu kinh tế gây ra tình trạng "thắt cổ chai" là nguyên nhân cơ bản của lạm phát. Lạm phát trong kinh tế học được hiểu là sự tăng giá chung. Lạm phát thường có nguyên nhân từ tiền tệ do ngân hàng nhà nước cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. Lạm phát cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng sản xuất của nền kinh tế tạo ra lạm phát do cầu kéo. Chi phí sản xuất gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo ra lạm phát do chi phí đẩy. Có thể nói lạm phát ở Việt Nam hiện nay hội tụ đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy và tiền tệ. Nhóm nguyên nhân thứ nhất có nguồn gốc từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm qua và việc Việt Nam gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền kinh tế. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 11,7% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006(2). Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề "thắt cổ chai" liên quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận việc gia tăng đầu tư nước ngoài và đầu tư công vào kết cấu hạ tầng tạo cơ hội nhiều hơn thách thức, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề "thắt cổ chai", tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn. Nhóm nguyên nhân thứ hai có nguồn gốc từ các yếu tố bên ngoài Tác động của lạm phát do chi phí đẩy ở Việt Nam thường cao hơn gấp đôi các nước khác trong khu vực là do Việt Nam thực thi chính sách neo giá đồng nội tệ với USD(3). Các nước trong khu vực như Ma-lai-xi-a và Thái Lan theo đuổi chính sách thả nổi có điều tiết đồng nội tệ và đã điều chỉnh lên giá nội tệ theo giá trị danh nghĩa của đồng USD trong thời gian qua. Kể cả Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam trong việc thực thi chính sách tỷ giá cũng đã điều chỉnh lên giá danh nghĩa nội tệ trong thời gian qua. Kết quả là, trong khoảng thời gian từ tháng 1-2004 đến nay, đồng Việt Nam có xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi đồng tiền của các nước khác trong khu vực có xu hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD. Giá hàng hóa, nguyên liệu trên thế giới tăng mạnh trong thời gian gần đây là do tăng trưởng cầu thế giới tăng nhanh hơn tốc độ tăng cung với bằng chứng là lượng hàng tồn kho hàng hóa nguyên liệu giảm mạnh. Đồng USD mất giá danh nghĩa làm cho giá hàng hóa tính theo đồng tiền khác như EUR, GBP giảm tương đối và càng khuyến khích cầu. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư trên thế giới gia tăng mua hàng hóa đề phòng vệ rủi ro mất giá USD. Kết quả là giá hàng hóa nguyên liệu tăng lên cao hơn mức bình thường, tăng do tăng cầu và tăng do USD mất giá. Các nước trong khu vực có điều chỉnh nâng giá nội tệ tương ứng với mức mất giá danh nghĩa của Mỹ (đo bằng chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa NEER) sẽ điều chỉnh giảm được tác động tăng giá do mất giá đồng USD. Hình 3 minh họa mức biến động giá lương thực theo nội tệ của các nước so với giá danh nghĩa của đồng USD và tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER). Có thể nhận thấy, giá lương thực thế giới tính theo VNĐ cao hơn mức giá tính theo USD do đồng Việt Nam mất giá so với USD. Giá lương thực theo bạt (Thái Lan) và nhân dân tệ (Trung Quốc) còn có phần rẻ hơn mức tỷ giá hiệu lực danh nghĩa (NEER) của Mỹ. Chính nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt, Thái Lan và Trung Quốc giảm được tác động sốc giá lương thực từ nước ngoài. Việt Nam thi hành chính sách neo tỷ giá và vì vậy đã nhập khẩu lạm phát giá lương thực theo USD. Đây có thể là nguyên nhân chính làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Nhóm nguyên nhân tiếp theo gây ra lạm phát ở Việt Nam là yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam tăng quá nhanh trong những năm vừa qua. Trong ba năm từ 2005 đến 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31-12-2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006(4). Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường(5). Mặc dù không thể phủ nhận yếu tố tiền tệ là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát hiện tại, nhưng cũng cần khẳng định rằng, nguyên nhân chủ yếu là do thiên tai, dịch bệnh lây lan và giá nguyên liệu đầu vào tăng đột biến dẫn đến giá lương thực tăng cao. Trong những năm 1999, 2000, mức cung ứng tiền tệ M2 đã có lúc lên tới 56,2% nhưng Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thiểu phát. Hơn nữa, độ trễ của chính sách tiền tệ là từ 6-36 tháng, nên không phải cung tiền tăng lập tức dẫn tới lạm phát. Trong tình hình hiện nay, tốc độ tăng trưởng cung ứng tiền tệ M2 chỉ đóng vai trò xúc tác cho quá trình nhập khẩu lạm phát từ nước ngoài. Trên thực tế, ở bảng 1 chúng ta có thể thấy do lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng tới 42,7% trong chỉ số CPI, nên phần đóng góp của giá lương thực thường chiếm tới 70% động thái của chỉ số giá tiêu dùng CPI (được coi là tỷ lệ lạm phát). Trong quý III năm 2007, phần đóng góp của các yếu tố phi lương thực vào lạm phát chỉ là 3,5%. Con số này là 4% cho quí IV năm 2007, và ngay cả khi lạm phát lên tới 15,7% vào tháng 2-2008, thì lương thực thực phẩm góp tới 10,8%. Tháng 3 và tháng 4, tỷ lệ lạm phát so với cùng kỳ năm trước là 19,4% và 21,4%, phần đóng góp của lạm phát giá lương thực, thực phẩm là 13,1% và 14,6%. 2 - Thử bàn thêm về giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam Theo thông tin từ Hiệp hội Thủy sản các tỉnh phía Nam, việc không vay được vốn đã bắt đầu gây ra nhiều hậu quả mà cả doanh nghiệp và nông dân phải gánh chịu. Điều này khiến việc mua cá nguyên liệu của người dân chậm lại, nông dân đang bị thiệt hại rất lớn. Chỉ tính riêng từ tháng 3-2008 đến nay, người nuôi cá đã mất khoảng 300 tỉ đồng do việc không bán được cá và giá cá xuống thấp. Nông dân không còn mặn mà nuôi cá, nguồn cá nguyên liệu sụt giảm, công nghiệp chế biến lại gặp khó khăn. Vòng tròn luẩn quẩn là khi có thị trường thì không có cá để xuất khẩu và ngược lại, khi có cá thì không có thị trường. Lãnh đạo Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng cho rằng, khi doanh nghiệp đang căng sức để cạnh tranh và giữ lấy thị trường nước ngoài nhiều biến động thì câu chuyện vốn vay, lãi suất và giá cả trong nước gần như đi ngược lại tất cả(6). Lạm phát tiền tệ có thể được giải quyết thông qua thắt chặt tín dụng, nhưng lạm phát do cầu kéo hoặc chi phí đẩy chỉ có thể được giải quyết thông qua điều chỉnh cơ cấu và ổn định hóa. Việc thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ trong những tháng đầu năm 2008 thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và phát hành tín phiếu bắt buộc nhằm thu hút bớt tiền từ lưu thông về, giảm áp lực đối với lạm phát, kiểm soát quy mô tăng trưởng tín dụng bộc lộ nhiều vấn đề có tính hệ thống, cơ cấu, đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính. 2006 2007 2007 (Quý III) 2007 (Quý IV) 02-2008 Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng (headline inflation) Việt Nam 7,4 8,3 8,6 10,7 15,7 Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI 3,7 4,8 5,1 6,7 10,8 Trung Quốc 1,5 4,8 6,2 6,7 8,7 Thái Lan 4,6 2,2 1,6 2,9 5,4 Phi-lip-pin 6,2 2,8 2,5 3,3 5,4 Chỉ số lạm phát “cơ bản” (“core” inflation) Trung Quốc 0,8 0,9 0,8 1 1,1 Thái Lan 2,3 1 0,7 1,1 1,5 Phi-lip-pin 5,6 0 2,8 2,4 4 Cần phải xác định xem lạm phát có nguyên nhân từ vấn đề tiền tệ hay không, nếu có thì ở mức độ như thế nào, và quá trình can thiệp của Chính phủ phải diễn ra bao lâu. Việc thắt chặt tín dụng đột ngột trong những tháng đầu năm đã gây sốc cho hệ thống tài chính, đặt hệ thống tài chính trước nguy cơ khủng hoảng, và nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng đình trệ, suy thoái. Nghiên cứu lạm phát ở Việt Nam cần chỉ ra khi nào có thể sử dụng công cụ tiền tệ, khi nào cần phải giải quyết vấn đề cơ cấu. `Bảng 1. Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng và chỉ số lạm phát "cơ bản" Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008) Bảng 1 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu là do tăng giá lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt Nam phải “nhập khẩu lạm phát” giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch đại mức tăng giá cả lương thực tương đối so với các nước khác. Trừng phạt hệ thống tài chính, ngân hàng bằng các công cụ hành chính sẽ không giải quyết được vấn đề lạm phát phi tiền tệ. Hiện nay, các nước trên thế giới thường sử dụng thêm chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation), là chỉ số lạm phát loại bỏ các nhân tố biến động lớn như giá lương thực và năng lượng, để giám sát các nhân tố lạm phát có nguồn gốc tiền tệ. Khi chỉ số lạm phát cơ bản nằm trong giới hạn kỳ vọng, mà chỉ số giá tiêu d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctai_chinh_tien_te_008.doc
Tài liệu liên quan