Tiểu luận Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước ta

Xuất phát từ quan điểm CNH-HĐH là sự nghiệp của quần chúng nhân dân thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác nhau nên phát triển các thành phần kinh tế để huy động tối đã nguồn lực của toàn dân vào sự nghiệp CNH-HĐH là một điều kiện cần thiết quan trọng về tổ chức lực lượng cho sự phát triển. Bởi vì mỗi thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể, tư nhân đều có những thế mạnh riêng, có thể bổ sung cho nhau, cần phải được khai thác triệt để nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong quá trình CNH-HĐH. Việc phát triển các thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH có thể thực hiện theo phương hướng sau:

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng . Sự điều chỉnh, thay đổi bước đầu trong nhận thức và chủ trương đã có tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa. Bình quân hàng năm thời kỳ 1981-1985 sản xuất công nghiệp tăng 9,5%; sản xuất nông nghiệp tăng 5,3%; cơ cấu công nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất vẫn được tăng từ 20,2% (1980) lên 30% (1985). 2. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đây là giai đoạn có sự đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức, quan điểm và về tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đại hội lần thứ VI đã xác định rõ những quan điểm, chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNCH. Đại hội chỉ rõ: "Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo"(1) (2) Văn kiện Đại hội VI của Đảng và "trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990 phải thật sự tập trung sức người, sức của vào thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu..."(2). Thực hiện 3 chương trình mục tiêu thực chất đó cũng là chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ những quan điểm và chủ trương đổi mới trên, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hóa bằng cơ chế và thành các chính sách, biện pháp thực hiện, đáng kể nhất đó là: Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính - tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy mặc dù có "cú sốc" lớn là Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã làm mất đi khoản viện trợ khoảng 1 tỷ đô la năm, bằng gần 7% GNP và mất đi thị trường không chuyển đổi, mặc dù Mỹ còn gây khó khăn do tiếp tục chính sách cấm vận, nhưng nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm, giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986: 587,2%; 1987: 416,77%; 1988: 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989: 30%; 1990: 52,8%. Trong thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội: 4,8%: thu nhập quốc dân: 3,9%, giá trị tổng sản lượng công nghiệp: 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp: 3,5%; giá trị xuất khẩu: 28%; cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp trong thu nhập quốc dân sản xuất đã có sự điều chỉnh: Công nghiệp: 30% (1985); 23% (1990); còn nông nghiệp 47,3% (1985); 46,6% (1990). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1976 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,665; cơ khí (bao gồm cả điện tử) 9,65%; hóa chất phân bón, cao su: 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là 5,1%:15,9%:9,4%. Nếu so sánh giá trị tổng sản lượng công nghiệp của năm 1990 với năm 1976 thì chỉ số phát triển công nghiệp của cả nước là 2,13 lần, trong đó: Điện lực 2,96 lần; cơ khí 3,52 lần; hóa chất, phân bón, cao su: 2,13 lần. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến phát triển các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực: vốn, kỹ thuật truyền thống, lao động, công nghiệp nhóm A chiếm 33,8% (thời kỳ 1976 - 1980): 33,5% (thời kỳ 1981-1985) và 32,9% (1990). Tương ứng với các thời kỳ đó, công nghiệp nhóm B chiếm tỷ trọng: 66,5% và 67,1%. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá, lực lượng sản xuất bước đầu được giải phóng. Khu vực công nghiệp quốc doanh sau thời gian phải đương đầu với các thử thách quyết liệt khi chuyển sang cơ chế mới tưởng chứng không vượt qua nổi (năm 1989 giảm 2,5% so với 1988) nhưng đến năm 1990 công nghiệp quốc doanh đã thích nghi dần với cơ chế mới một số ngành, một số cơ sở chủ yếu là quốc doanh trung ương đã khôi phục đưọc sản xuất và tiếp tục phát triển. Nếu năm 1976 công nghiệp quốc doanh chiếm 58,6%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Tiếp tục những quan điểm, chủ trương, chính sách đổi mới, đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng nội dung của phát triển kinh tế - xã hội và của công nghiệp hóa. Đại hội đã chỉ rõ: "Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển... phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân"(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. "Mục tiêu tổng quát của chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ 21"(2) Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 Đại hội VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995) là: "Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế"(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Quá trình đổi mới đã tạo nên những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong các năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất so với nhiều năm trước đây. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế: chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân tháng của năm 19911 4,4%; 1992:1,3%; 9 tháng đầu năm 1993: 0,5%. Chênh lệch giá trị nhập và xuất giảm đáng kể. Sự phát triển của công nghiệp trong những năm đổi mới, không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở việc chú trọng hơn tới đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc tế, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc. Ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn. Ngành sản xuất điện phát triển mạnh. Thúc đẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần: Trong những năm đầu của quá trình đổi mới của CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hóa, cụ thể hóa bằng cơ chế và chính sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm tàng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn. - Tạo ra nguồn lao động và đội ngũ lao động dồi dào có trình độ dân trí được nâng cao, tỷ trọng lao động có trình độ nghề nghiệp, kỹ thuật ngày càng cao. Có đạt được những thành tích và kết quả đó vào bối cảnh cụ thể của đất nước: Điểm xuất phát ban đầu thấp, chiến tranh kéo dài nhiều năm và để lại hậu quả nặng nề, diễn biến tình hình quốc tế phức tạp, có đột biến và bất lợi... mới thấy hết những thành tựu của CNH mà chúng ta đã đạt được là to lớn và có ý nghĩa. Tuy nhiên Quá trình CNH XHCN ở nước ta hơn 30 năm qua còn nhiều tồn tại, nhược điểm. Những tồn tại chủ yếu là: - Quá trình CNH diễn ra quá chậm - Phân công lao động xã hội phát triển chậm chạp. Cơ cấu kinh tế thiếu năng động, hiệu quả thấp, chứa đựng nhiều bất hợp lý, nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng. Chưa kết hợp tốt cơ cấu ngành với cơ cấu thành phần và cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ trong một trạng thái đồng bộ năng động có hiệu quả để thực hiện tốt nhất mục tiêu chung của phát triển kinh tế - xã hội. - Trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ thấp kém, mất cân đối, đổi mới chậm. - Sự nghiệp CNH phải đương đầu với nhiều khó khăn do sai lầm trước đây để lại và do thách thức mới đưa tới. Đó là: tỷ lệ thất nghiệp còn cao, đời sống thấp, tỷ lệ tích lũy và đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh đang gặp khó hăn về vốn và thị trường. II/ Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu và giải quyết để thực hiện CNH-HĐH. 1. Phát triển thị trường của công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Thị trường của CNH-HĐH là điều kiện đầu tiên của CNH-HĐH. Thị trường của CNH-HĐH trước hế là thị trường đầu ra, thị trường đầu ra giúp chúng ta xác định được nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế cần sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, chất lượng như thế nào, thời gian cung cấp ra sao. Nhu cầu của thị trường đầu ra sẽ quyết định qui mô, tốc độ và bước đi của CNH-HĐH. Có thể nói thị trường trong nước và ngoài nước không chỉ là điều kiện đầu tiên, mà còn là điều kiện quyết định, là một thách thức đối với quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam . Đối với Việt Nam, muốn phát triển thị trường rộng lớn ở trong nước, nhất là thị trường nông thôn, trước hết chúng ta cần phải phát triển thị trường ngoài nước. Để phát triển được thị trường ngoài nước chúng ta cần thực hiện các phương hướng cơ bản sau: a) Thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu và khai thác các lợi thế so sánh để phát triển. Muốn vậy, cần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam để mở rộng thị trường ngoài nước. Chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, điều tra, thăm dò, dự báo thị trường trong nước và ngoài nước. Cần tổ chức nghiên cứu để hiểu đầy đủ các đối tác, kể cả những đối tác còn là tiềm năng để có chủ trương và chính sách thị trường thích hợp nhằm đạt được mục tiêu của chúng ta. Xây dựng tỷ giá hối đoái hợp lý để vừa khuyến khích mạnh việc phát triển xuất khẩu vừa điều tiết được nhập khẩu có hiệu quả những hàng hoá, dịch vụ cần thiết mà Việt Nam chưa làm được. b) Đổi mới cơ cấu xuất khẩu, và thủ tục nhập khẩu. Đổi mới cơ cấu xuất khẩu để không ngừng tạo ra những mặt hàng xuất khẩu mới, hấp dẫn với thị trường ngoài nước theo hướng tăng hàm lượng công nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám trong các hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, giảm tối đa xuất khẩu hàng hoá thô. Chủ động cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành hàng hoá và bao bì xuất khẩu để nâng cao sức cạnh tranh ở thị trường ngoài nước. Cải tiến các thủ tục xuất nhập khẩu, đơn giản hóa quy chế về cấp côta, giấy phép để nhanh chóng phát triển thị trường và hạn chế những tiêu cực do thủ tục phiền hà chậm trễ gây ra. c) Tổ chức tốt công tác thông tin về thị trường. Công tác thông tin về thị trường rất quan trọng, trong đó chúng ta phải cung cấp các thông tin cần thiết về kinh tế và thương mại của Việt Nam cho nước ngoài; đồng thời tổ chức tốt việc thu nhập và cung cấp thông tin kinh tế và thương mại quốc tế, khu vực, cho các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp trong nước. Phát triển các tổ chức làm dịch vụ thăm dò, nghiên cứu, dự báo, giới thiệu thị trường bạn hàng. Tìm hiểu và chuẩn bị điều kiện để tham gia ngày càng nhiều vào các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực khi xét thấy cần thiết và có khả năng. d) Ra sức mở rộng thị trường trong nước để phát triển. Đồng thời với việc mở rộng thị trường ngoài nước theo hướng xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, chúng ta phải phát triển thị trường trong nước, thị trường của hơn 70 triệu dân, trong đó hơn 80% là dân cư nông nghiệp. Phải đảm bảo cho hàng hoá, dịch vụ trong nước đạt chất lượng cao, giá thành hạ và mẫu mã phù hợp để cạnh tranh thắng lợi với hàng ngoại nhập vào Việt Nam. Hàng hoá, dịch vụ trong nước phải đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống cả ở thành thị và nông thôn. Phải phát triển sản xuất, bảo đảm công ăn việc làm, tăng sức mua của xã hội, của nhân dân. e) Chấn chỉnh lưu thông, hàng hoá, phát triển các điểm và trung tâm thương mại. Một mặt, chúng ta cần có biện pháp chấn chỉnh lưu thông hàng hoá giữa thành tị và nông thôn, giữa công nghệ phẩm và nông sản phẩm, bảo đảm cho thị trường thống nhất trong cả nước và phát triển thị trường từng vùng, từng địa phương cho phù hợp với cung cầu về hàng hoá, dịch vụ của từng địa phương, mặt khác phải phát triển các điểm và trung tâm thương mại phù hợp với yêu cầu phát triển thị trường trong nước ở các thành phố, khu công nghiệp tập trung và quá trình đô thị hóa ở nông thôn, trung du, miền núi, vùng biên giới, vùng ven biển. Tổ chức một số siêu thị ở các thành phố lớn. g) Đẩy mạnh xuất nhập khẩu phải đi đôi với bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo đảm cho sản xuất trong nước phát triển có hiệu quả. Nhưng cần nhấn mạnh rằng việc bảo hộ phải có mức độ, có thời hạn đối với những ngành, lĩnh vực thật cần thiết trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng, tính đến các thông lệ quốc tế, qui định thương mại quốc tế và khu vực. Thúc đẩy các cơ sở sản xuất vươn lên cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Nhà nước cần xác định và công bố rõ chính sách bảo hộ đối với từng mặt hàng cụ thể trong từng thời gian cụ thể tùy theo nhu cầu thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. 2. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện thành công quá trình CNH-HĐH, ngoài việc xác định rõ CNH-HĐH cái gì là tối ưu nhất, chúng ta phải xác định rõ CNH-HĐH được thực hiện bằng những nguồn lực nào trong đó nguồn nhân lực là điều kiện, là yếu tố đầu vào quyết định nhất. Quyết định nhất bởi vì nguồn nhân lực sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH-HĐH, sẽ quyết định việc lựa chọn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi và biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, sẽ quyết định và lựa chọn các yếu tố đầu vào, các nguồn lực khác để thực hiện; sẽ quyết định việc tổ chức và thực hiện quá trình CNH-HĐH. Trên ý nghĩa đó, việc phát triển nguồn nhân lực đủ số lượng, có chất lượng cao, đồng bộ về ngành nghề, trình độ là vấn đề rất cấp bách và cơ bản cho sự nghiệp CNH-HĐH. Trong việc phát triển nguồn nhân lực cần coi trọng nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, kinh doanh, quản lý. Trong đào tạo cần kết hợp giữa đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ có tác phong công nghiệp, để phát triển nguồn nhân lực cho CNH-HĐH theo mục tiêu nói trên cần giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau đây: a) Nâng cao trình độ văn hóa cho mọi người dân trong độ tuổi đi học. Muốn vậy cần phát triển và nâng cao chất lượng văn hóa trong hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non đến hết lớp 12 phổ thông và bổ túc văn hóa. Trong đó phải coi trọng trình độ văn hóa, trình độ ngoại ngữ và trình độ máy tính. Chúng ta phải tiến tới đào tạo cho học sinh phổ thông tốt nghiệp cấp 3 phải đạt trình độ ngoại ngữ và khả năng sử dụng được máy tính cần thiết. Yêu cầu này nên đặt ra cho phù hợp với sự phát triển của từng vùng: đồng bằng, miền núi, trung du, thành phố, và nông thôn. Trong đó cần ưu tiên cho các vùng đồng bằng, các thành phố thực hiện trước một bước. b) Phát triển nguồn nhân lực và nhân tài đủ về số lượng, đạt chất lượng cao, đồng bộ và ngành nghề và trình độ. Để đáp ứng được yêu cầu này cần phải giải quyết tốt các vấn đề sau đây: - Phát triển việc đào tạo mới, có chất lượng cao đội ngũ công nhân, đặc biệt là công nhân lành nghề, công nhân bậc cao theo yêu cầu CNH-HĐH. Đào tạo lại, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật cho đội ngũ công nhân hiện có. Phát triển việc đào tạo mới, có chất lượng cao đội ngũ có trình độ trung học, cao đẳng, đại học, trên đại học đáp ứng cho nền kinh tế quốc dân, cho các lĩnh vực, cho các cấp, nâng cao trình độ cho cán bộ đội ngũ hiện có để CNH-HĐH. c) Tổ chức lại hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp theo yêu cầu CNH-HĐH. - Tổ chức lại hệ thống giáo dục phổ thông của cả nước và từng địa phương theo yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đảm bảo nguồn đầu vào có chất lượng, đào tạo nguồn nhân lực cho các trình độ khác nhau. - Tổ chức lại mạng lưới đào tạo nghề trong cả nước, từng ngành, từng địa phương và cơ sở nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo công nhân, nhất là công nhân lành nghề, công nhân bậc cao. - Tổ chức lại hệ thống, mạng lưới các trường đại học và cao đẳng nhằm tập trung nguồn lực để đào tạo có chất lượng cao ở bậc cao đảng, đại học và sau đại học. d)Đầu tư thỏa đáng để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nguồn đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực cần có là: Nhà nước đầu tư nguồn nhân lực đúng mức cho việc phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng, cơ sở vật chất cần thiết, các máy móc thiết bị, đồ dùng học tập, hệ thống giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy học tập, cấp học bổng cho học sinh thuộc diện chính sách xã hội và học tốt. - Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư của nước ngoài và các tổ chức quốc tế để xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, phát triển giáo khoa, giáo trình, tài liệu, kinh nghiệm đào tạo và quản lý giáo dục đào tạo. - Động viên mọi tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế - xã hội, từng gia đình và từng học viên tham gia sự nghiệp giáo dục, đào tạo theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng nhiều hình thức thích hợp. e) Cần xây dựng chinhs sách khuyến khích phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đây là điều kiện kinh tế quan trọng để khuyến khích các nguồn nhân lực. Trước hết là nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có trình độ cao, tạo cơ hội thuận lợi để tìm được việc việc làm, có thu nhập xứng đáng, phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo sự công bằng trong kinh tế. Có chế độ đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. - Có chế độ khuyến khích thỏa đáng đối với đội ngũ giáo viiên rong hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là đội ngũ giáo viên có trình độ cao, giảng dạy có chất lượng, nghiên cứu khoa học và ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề cao vị trí của người thầy trong xã hội, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Phát triển các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu của CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Có thị trường, có thị hướng đúng đắn về công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới chỉ tạo được khả năng. Muốn khả năng đó thành hiện thực cần tạo ra được điều kiện đồng bộ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ CNH-HĐH đòi hỏi cần phải phát triển nguồn nhân lực, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghiệp hiện đại, tiên tiến để chuyển lao động từ thủ công lên hiện đại có năng suất lao động xã hội cao đạt hiệu quả kinh tế lớn. Muốn vậy chúng ta phải đầu tư một khối lượng vốn lớn, phải quản lý và sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất theo mục tiêu của CNH-HĐH . Nguồn vốn lớn được tạo ra có khả năng bảo đảm đủ số lượng và chất lượng các yếu tố đầu vào cho quá trình CNH-HĐH . Để thực hiện tốt việc tạo vốn, huy động và sử dụng có hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH cần giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau đây: a) Tạo vốn, huy động và sử dụng có hiệu quả nhiều nguồn vốn cho nhu cầu CNH-HĐH , bao gồm nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong suốt quá trình CNH-HĐH thì nguồn vốn trong nước là chính. Nhưng trong giai đoạn đầu, nguồn vốn trong nước rất hạn chế vì thu nhập quốc dân còn thấp, tích lũy nội bộ nền kinh tế còn nhỏ bé. Do đó nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Trong đó có những công trình mà vốn nước ngòai có vai trò quyết định, bởi vì nó thúc đẩy việc khai thác các nguồn lực, nguồn vốn trong nước và tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động. - Nguồn vốn trong nước phải huy động bao gồm các tài nguyên nhân lực, tài sản và vốn bằng tiền của Nhà nước và của nhân dân. - Nguồn vốn ngoài nước bao gồm các khoản viện trợ chính thức (ODA), vốn đầu tư trực tiếp (FDI), các loaị vốn vay và viện trợ khác. - Phải tính toán các phương án đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả, bảo tòan và phát triển được vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư tập trung và vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, xây dựng chế độ làm chủ trực tiếp, cụ thể đối với mọi tài sản công, chống thất thoát, tham ô, hối lộ và lãng phí vốn của công. b) Định hướng đúng đắn việc đầu và xây dựng môi trường, đầu tư thuận lợi theo hướng chủ yếu là: - Quy hoạch các địa bàn phát triển kinh tế trọng điểm, hình thành những cụm, khu công nghiệp ở từng vùng, từng địa phương một cách hợp lý, xây dựng ở đó những cơ sở hạ tầng cần thiết và quy chế hành chính kinh tế thích hợp nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển sản xuất kinh doanh , theo mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đảm bảo an ninh quốc gia. - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi cho việc phát triển đầu tư; Xây dựng chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng, nhất quán để mọi người yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh theo quy hoạch của Nhà nước. Khắc phục nạn quan liêu, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất, giải phóng mặt bằng, lắp đặt điện nước, máy móc thiết bị. Thực hiện tốt Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật thu hút vốn đầu tư nước ngoài. c) Tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, tài chính để phát triển và quản lý nguồn vốn có hiệu quả theo hướng cơ bản sau: - Tiếp tục đổi mới hệ thống tín dụng - ngân hàng, mở rộng loại hình và chất lượng dịch vụ ngân hàng nhằm bảo đảm phục vụ nhanh chóng, thuận tiện, an toàn; có biện pháp huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tiếp tục đẩy lùi và kiềm chế lạm phát; phát triển các hình thức huy động vốn bằng góp cổ phần; bán cổ phiếu, trái phiếu cho nhân dân trong nước, thí điểm bán một phần ra thị trường vốn ngoài nước. Chuẩn bị tích cực để từng bước hình thành thị trường chứng khoán. - Đổi mới hệ thống tài chính quốc gia, cải cách hệ thống thuế, bảo đảm huy động đủ nguồn ngân sách, phấn đấu tăng nguồn thu cho ngân sách, nâng tổng số tích lũy cho đầu tư trong toàn xã hội lên 25 - 30% GDP. Tiếp tục xóa bao cấp đối với hàng hóa dịch vụ như: điện, nước, giao thông vận tải, xăng dầu. Giảm dần và tiến tới bảo đảm cân bằng thu chi ngân sách. Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển, để lại khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp tái đầu tư. Hướng dẫn tiêu dùng và thực hành tiết kiệm để tăng vốn cho đầu tư phát triển. d) Tổ chức tốt việc tiếp nhận các nguồn vốn viện trợ và quy định chặt chẽ về vay và trả nợ theo phương hướng chủ yếu sau: - Khẩn trương hoàn thành việc xây dựng và thẩm định dự án để tiếp nhận nhanh và sớm đưa vào sử dụng các nguồn viện trợ chính thức ODA, các khoản cho vay của các tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới, tranh thủ chuyển giao vốn công nghệ hiện đại, kỹ năng điều hành tiên tiến, đổi mới căn bản phương thức đầu tư vốn của nhà nước theo hướng tập trung trước hết cho xây dựng kết cấu hạ tầng, các ngành, các lĩnh vực thiết yếu, chỉ cấp phát vốn cho dự án không thể trực tiếp thu hồi vốn. - Qui định chặt chẽ về vay, trả nợ, kể cả vay trong dân và vay nước ngoài. Bảo đảm sử dụng tiền vay có hiệu quả và trả được nợ. Nhà nước vay chủ yếu để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng một số công trình hết sức trọng yếu. Đối với các doanh nghiệp áp dụng hình thức tự vay, tự trả có bảo lãnh của cơ quan tài chính ngân hàng, Nhà nước dành một phần vốn vay cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vay để đầu tư phát triển với lãi suất đủ trả nợ gốc và lãi cho nước ngoài, nhưng cần làm có trọng điểm để rút kinh nghiệm. 4. Phát triển các thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ quan điểm CNH-HĐH là sự nghiệp của quần chúng nhân dân thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác nhau nên phát triển các thành phần kinh tế để huy động tối đã nguồn lực của toàn dân vào sự nghiệp CNH-HĐH là một điều kiện cần thiết quan trọng về tổ chức lực lượng cho sự phát triển. Bởi vì mỗi thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể, tư nhân đều có những thế mạnh riêng, có thể bổ sung cho nhau, cần phải được khai thác triệt để nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong quá trình CNH-HĐH. Việc phát triển các thành phần kinh tế để đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH có thể thực hiện theo phương hướng sau: a) Không ngừng phát triển kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp Nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Các doanh nghiệp Nhà nước phải phát huy vai trò trung tâm công nghiệp, dịch vụ, trung tâm khoa học - kỹ thuật, trung tâm văn hóa trên cùng địa bàn. Các do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50173.doc
Tài liệu liên quan