Tiểu luận Quá trình thâm nhập nho giáo vào Việt Nam và ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức nho giáo với việc xây dựng con người Việt Nam

Nho giáo vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc, qua ba thời kỳ như sau:

– 111 tcn-39: các đời Tây Hán và Đông Hán.

– 43-544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều.

– 603-939: các đời Tùy, Đường, Ngũ Quý.

Mười thế kỷ đầu công nguyên, Nho học Việt Nam chưa thịnh, chưa hình thành tầng lớp Nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội. Thành phần trí thức ưu tú bấy giờ là những nhà tu, đặc biệt là các cao tăng. Thông qua việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các sư tiếp thu luôn Nho học. Thế nên, khi đất nước vừa độc lập, kể từ Ngô (939-965), Đinh (968-979), Lê (980-1009), trí thức tài đức ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền sư có công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy dạy Lý Công Uẩn; sư Trí ở núi Cao Dã là thầy của Thái úy Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa.

Nho học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy. Nho học mở đường xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử;[1] nhờ đó thúc đẩy văn học phát triển, văn hóa được nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác gia, đi sâu vào triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách vở bị cướp, đốt mất quá nhiều, tư tưởng học thuật của tiên Nho Việt Nam hầu như không còn lưu lại gì cho đời sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho giáo Việt Nam, cái nổi bật hình như không phải là tư tưởng triết học, mà lại là văn chương, khoa cử, và vai trò chính trị của sĩ phu trong lịch sử.

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12118 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Quá trình thâm nhập nho giáo vào Việt Nam và ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức nho giáo với việc xây dựng con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn như trước đạo đức bị suy vì.Khổng Tử phải than rằng;”vua không phải đạo vua,tôi không phải đạo tôi,cha không phải đạo cha ,con không phải đạo con”. Ông muốn xây dựng một xã hội “vua ra vua,bề tôi ra bề tôi,cha ra cha ,con ra con”.Vì vậy của Khổng Mạnh là học thuyết chính trị xã hội. Nội dungcơ bản đường lối Khổng Mạnh là “đức trị” “lấy dân làm gốc”. Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản,vấn đề trung tâm xuyên suốt học thuyết nho giáo.Khổng Tử không tách rời dậo đức và chính trị. Qua tác phẩm Luân ngữ cho ta thấy Khổng Tử và các nhà nho đương thời là học trò ông luôn lấy đạo đức là gốc của mọi quan hệ chính trị .Khổng Tử cho rằng nếu một vị vua có đức biết đem cái đức của mình toả sáng trong thiên hạ thì với đức độ ấy người dân lại hướng về vị vua đó. Khi bàn về đường lối trị nước Khổng tử cũng thiên về đường lối “đức trị”luôn nhấn mạnh dùng đức trị nước. Ông nói:”Nếu nhà cầm quyền chuyên quyền dùng pháp chế,cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng ; chuyên dùng hình phạt mà trị dân thì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi chứ họ chẳng biết hổ người.Vậy nmuốn dắt dẫn dân chúng nhà câm quyền phải dùng lễ tiết ,thì chẳng những dân biêt hổ người ,họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành”. Trong quan hệ với dân, trong việc trị dân ,Khổng Tử mong nhà cầm quyền không nên dùng Pháp luật,hình phạt ép dân làm cho dân sợ mà tự nhà cầm quyền phải thỉ ân bổ đức mà đem đức hạnh mà chỉ bảo cho dân ,tự nhà cầm quyền phải giữ gìn lễ nghĩa đem đến lễ nghi mà giảng giải cho dan. Tự nhiên dân biết hổ thẹn ,biết cảm mến hướng về đường phải. Mạnh Tử kế tục tư tưởng của Khổng Tử và nêu lên “ngũ luân”. Ông cho rằng con người phải có nhân. Người có nhân là người biết ăn ở theo nhân luân(tức ngũ luân). Đólà năm mối quan hệ xã hội cơ bản giữa người với người trong xã hội. Năm mối quan hệ đó là :Vua-tôi,cha-con,vợ chồng,anh-em,bạn bè.Về năm mối quan hệ các nhà nho cho rằng :”Quân thần hữu nghĩa,phụ tử hữu thân ,phu phụ hữu biệt,trưởng ấu hữu tự ,bằng hữu hữu tín”tức là Vua tôi phải sống theo nghĩa ,cha con phải có tình thân ái ruột thịt,vợ chồng phải có sự khác biệt,anh em phải có thứ tự trên dưới,bạn bè phải có tín”. Mối quan hệ trong ngũ luân thời Khổng Mạnh là mối quan hệ có tính chất hai chiều,bề trên có trách nhiệm với bề dưới ,bề dưới có nghĩa vụ với bề trên.Mọi người đều cố trách nhiệm và nghĩa vụ lẫn nhau, đó là mối quan hệ đẹp mà các nhà nho đã dày công xây dựng.Ngoài năm mối quan hệ này các nhà nho còn bàn đến các mối quan hệ khác như quan hệ quân dân, thầy trò ,nam nữ… Trước hết mối quan hệ vua tôi là mối quan hệ quan trọng nhất,nó gắn với vân mệnh đất nước , được các nhà nho chú ý bàn nhiều nhất.Thời kỳ Khổng Mạnh quan hệ vua-tôi là quan hệ có đi có lạivì sự nghiệp chung trị nước an dân.Khổng Tử đặt ra vấn đề “vua ra vua” ” tôi ra tôi”. Vua là người trụ cột của đất nước phải xứng đáng đạo làm vua.Vua phải lấy nhân nghĩa đối xử với bề tôi.bbề tôi với vua phải trung.”Vua nhân tôi trung” “Vua lấy lễ mà sai khiến tôi,tôi đem lòng trung mà phụng sự vua”.Vua là tấm gương sáng để bề tôi và người dân noi theo.Mạnh Tử cũng cho rằng thánh nhân phải là người mẫu mực để người đời ăn ở theo nhân luân. Về phận bề tôi các nhà nho yêu cầu bề tôi đối với vua phải hết lòng trung thành đem nhân nghĩa hết lòng thờ vua giúp nước.Bề tôi phải làm cho vua tin dùng nếu vua không tin dùng thì lui về ở ẩn để giữ trọn khí tiết và lòng trung của mình.Bề tôi có trách nhiệm khuyên can để nhà vua sửa tính sửa nết ,bề tôi nói phải vua nghe theo.Khổng Tử nói:”Làm quan trung với bậc quốc trưởng ,muốn đem hết lòng giúp nước há không đem ý kiến sáng suốt của mình mà bày tỏ với bậc quốc trưởng ,há không can gián người sao”. Mạnh Tử đặt điều kiện có đi có lại trong mối quan hệ vua tôi.Nếu vua yêu quý bề tôi thì bề tôicũng yêu quý vua nếu vua coi thường bề tôi thì bề tôi cũng không tôn trọng vua . Như vậy quan hệ vua tôi thời Khổng Mạnh thật là khăng khít ,có đi có lại, có nghĩa có tình,mối quan hệ hai chiều làm nền tảng cho các mối quan hệ khác trong xã hội .Sau mối quan hệ vua tôi là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Đây là mmối quan hệ máu mủ ruột thịt gần gũi nhất trong gia đình. Về mối quan hệ cha mẹ - con cái: cha,cha(mẹ) sinh ra con cái phải hết lòng yêu thương nuôi dạy con cái,cha mẹ săn sóc cho con cái , cho con cái đi học để khi con cái trưởng thành có thể giúp ích cho đời.Cha mẹ có trách nhiệm dựng vợ gả chồng cho con cái . Còn Mạnh Tử cũng dẫn trong kinh lễ dạy rằng:” Đàn ông khi làm lễ đội mũ thì cha dạy cho;con gái khi làm lễ gả chồng thì mẹ gả cho,mẹ đưa con gái ra cửa răn con gái rằng:”Mày đi về nhà chồng mày phải kính ,phải răn ,chớ trái miệng chồng”. Qua lời mẹ dặn con gái thấy cho thấy bổn phận của cha mẹ với con cái ngay cả dến lúc trưởng thành. Về phía con cái ,các nhà nho cho rằng con cái với cha mẹ phải giũ trò đạo hiếu.Khi bàn về đạo hiếu Khổng Tử mới đề cập đến con cái phải lễ phép với cha mẹ đi theo chí hướng của cha. Mạnh Tử và Tăng Tử đã phất triển tư tưởng của Khổng Tử và bàn về đạo hiếu đầy đủ hơn sâu sắc hơn. Mạnh Tử nói :” Đạo hiếu là suốt đời thờ cha mẹ “ “ cỉ có phung dững cha mẹ là quan trọng nhất.Tăng Tử và một số nhà nho khác quy nội dung của hiếu về 3 điều: _Tôn kính cha mẹ ,vâng lời cha mẹ ,nghe theo lờo cha mẹ ,theo chí hướng của cha mẹ. _Phụng dưỡng cha mẹ suốt đời . _khi cha mẹ qua đời phải chôn cất chu đáo,thờ cúng cha mẹ cho có lễ. Các nhà nho còn nêu lên những diều bất hiếu.Mạnh Tử nói :Bất hiếu có năm tình huống sau;lười biếng chẳng muốn lam điều gì ,không đoái hoài dến cuụoc sống của cha mẹ.Ham thích cờ bạc không đoái hoài đến cha mẹ.Ham muốn tiền hoặc quá yêu quý vợ con ,quên chăm sóc cha mẹ. Ham thích hưởng lạc nhục dục để cha mẹ tủi nhục ,hổ thẹn.Quá ham mê võ lực đánh nhau tàn bạo chém giết người thiện lương khiến cha mẹ nguy khốn. Mạnh Tử nêu lên tội bất hiếu : một là cha mẹ lam điều bất nghĩa mà mình không biết can ngăn, để cha mẹ măc phải tiếng xấu .Hai là nhà nghèo mà mình chẳng chịu ra với đời kiếm chút lộc nuôi cha mẹ.Ba là chẳng chịu lấy vợ đẻ đén nỗi không có conlàm tuyệt mất sự tế tự vói tổ tiên. Các nhà nho giáo rất chú trọng giáo dục về đạo hiếu mong muốn con cái trở thành những người conhiếu thảo trong gia đình làm tất cả những gì để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹlam cho cha mẹ yên vui với tuổi già hãnh diện với bà con hàng xóm với xã hội. Tuy trong nội dung giáo dục lòng hiếu thảo còn những điều thái quá rườm rà nhưngviêc giáo dục lòng hiếu thảo của con cái với cha mẹ và mối quan hệ cha con nói chung của Nho giáo đã khá thành công vì nó dễ đi vào lòng người dễ được xã hội chấp nhận. Nó là mối quan hệ hai chiều có đi có lại,trách nhiệm đi liền với nghĩa vụ phù hợp với tình người đạo lý làm người.Nó có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trách nhiệm cũng như nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Về mối quan hệ anh em các nhà nho dều yêu cầu anh em trong một nhà phải cư xử với nhau có trên có dưới trước sau hoà thuận ,tô trọng quyền anh trưởng trong gia đình.Anh em trong nhà phải có thứ tự trên dưới .Anh nói em nghe, anh có quyền thay thế cha điều hành mọi công viêc trong gia đình khi cha mấtcò em phải vâng lời anh nghe theo anh chỉ bảocó như vậy gia dình anh em mới hoà thuận vui vẻ. Trong khi xây dựng các mối quan hệ khác trong ngũ luân các nhà nho cũng chú ý xây dựng mối quan hệ bạn bè(bằng hữu).Mối quan hệ này lấy chữ tín lam trọng:”Bằng hữu hữu tín”.chữ tín làm bạn bèvượt qua khó khăn thơưng yêu giúp đỡ lẫn nhau.chũ tín làm chotìng bạn mãi bền vững .Khi nói về kẻ sĩ Khổng Tử nói:”Phải cư sử với người thiết tha hết tình và giữ niềm hoà duyệt”.Tình bạn với quan niệm của nhà nho được xây dựng không dụa trên tiền tài danh vọng,giàu sang phú quý mà là nghĩa là tình.Họ kết bạn với nhau, động viên nhau giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn. Trong mối quan hệ thầy trò: quan hệ giữa thầy và trò trong đạo Nho có chứa đựng những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp. Nó yêu cầu người thầy phải là người có đạo đức, tự giác nêu gương và là tấm sáng cho học trò noi theo. Người thầy không chỉ dạy tốt mà còn phải là một điển hình về việc rèn luyện tu dưỡng và học tập, người thầy phải trở thành một mẫu mực về nhân cách đạo đức, một tâm hồn cao cả, có tình thương và sự khoan dung độ lượng đối với học trò. Người thầy phải là người học không biết chán, dạy không biết mỏi, dạy tất cả mọi người không phân biệt giàu nghèo, cao thấp. Bên cạnh đó nó cũng đặt ra cho người học những yêu cầu nhất định, đó là, phải ham học, khiêm tốn và biết tôn trọng người thầy… Bởi khiêm tốn là một trong những phẩm chất đạo đức Nho giáo và là đức tính của người học, muốn thế trong học tập người học phải luôn khiêm tốn. Trong tư tưởng Nho giáo đã khẳng định, học để biết, mà thế nào là biết: biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết như thế là người biết, học phải biết ta biết người, đừng lo người khác không biết gì về mình mà luôn nghĩ mình đã biết gì về người ta. Kho tri thức nhân loại là vô tận, tri thức của người học là cái có hạn trong cái vô tận của tri thức nhân loại. Tôn trọng thầy người học phải kính yêu thầy, coi thầy như cha mẹ mình, tôn trọng tri thức thầy đã tiếp thu của nhân loại để dạy mình… Ngoài quan hệ ngũ luân các nhà nho có đề cập đến quan hệ quân dân .Qua đó cho các bậc vua chúa thấy được tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân.Nên vua phải biết chăm lo đến dân ăn ở cho được lòng dân. Trên đây là các mối quan hệ cơ bản giữa người với người mà các nhà nho dày công xây dựng.các mối quan hệ ấy đều liên quan ràng buộc tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.các nhà nho giáo nhằm giáo dục con người có đức nhân, mọi người đều thấm nhuần và làm theo những điều nhân nghĩa .Các mối quan hệ này ở thời Khổng Mạnh là mối quan hệ đầy đặn có tính chất hai chiều, có đi có lại mang tính nhân bản sâu sắc ,có tác dụng tích cực trong viêc giáo dục và dào tạo nhân cách của con người trong xã hội. 2.3. M ột số hạn chế trong nội dung quan điểm về con người của Nho giáo Những nội dung ,kiến thức mà Nho giáo truyền đạt cũng chỉ tập trung vào hai vấn đề chính là chính trị và đạo đức. Còn những kiến thức khác thuộc về các ngành khoa học tự nhiên như Toán học ,Thiên văn, Địa lý …ít được đề cập tới. Từ đó cho ta thấy Nho giáo không khuyến khích con người tập trung phát triển sản xuất, phát triển khoa học. Đây chính là điểm hạn chế trong tư tưởng của Nho giáo trong quan niệm về con người và phát triển con người. Khổng Tử từng nói:”Chỉ có kẻ tiểu nhân mới quan tâm đến việc làm ruộng ,làm vườn”.Tư tưởng là một tư tưởng không tiến bộ, không thúc đẩy sự đi lên của nền kinh tế. Từ tư tưởng đó nên khi xem xét mỗi quan hệ giữa người với người trong xã hội Nho giáo chỉ chú ý đến các mối quan hệ chính trị đạo đức mà không chú ý đến các mối quan hệ khác như quan hệ sản xuất quan hệ nghề nghiệp. Nội dung tư tưởng của Nho giáo chủ yếu đề cập và đề cao giai cấp thống trị trong xã hội “người quân tử”, mà chưa chú ý đề cập tới việc xây dựng, rèn luyện tầng lớp nhân dân. Theo Nho giáo “kẻ tiểu nhân” không đáng được bàn tới, nhắc tới trong các học thuyết tư tưởng của mình. Nguyên nhân của hạn chế này có lẽ bắt nguồn từ việc những người sang tạo ra các học thuyết của Nho giáo đa phần đều xuất thân từ giai cấp thống trị - giai cấp quý tộc, trí thức. Khổng Tử đã mắc phải sai lầm hạn chế do ông xuất thân trong gia đình ở tầng lớp quý tộc. Ông cho rằng người thượng trí ở trong hoàn cảnh xấu nào cũng không thay đổi nhân tính như cùng chung chạ với bọn ác ,bọn người xấu ,còn kẻ hạ ngu thì ở trong môi trường tốt lành cũng khó thay đổi tính cách truỵ lạc dẫu gần người hiền đức cũng chẳng được cải hoá. QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM Quá trình truyền bá, phát triển Nho giáo ở Việt Nam Nho giáo vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc, qua ba thời kỳ như sau: – 111 tcn-39: các đời Tây Hán và Đông Hán. – 43-544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều. – 603-939: các đời Tùy, Đường, Ngũ Quý. Mười thế kỷ đầu công nguyên, Nho học Việt Nam chưa thịnh, chưa hình thành tầng lớp Nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội. Thành phần trí thức ưu tú bấy giờ là những nhà tu, đặc biệt là các cao tăng. Thông qua việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các sư tiếp thu luôn Nho học. Thế nên, khi đất nước vừa độc lập, kể từ Ngô (939-965), Đinh (968-979), Lê (980-1009), trí thức tài đức ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền sư có công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy dạy Lý Công Uẩn; sư Trí ở núi Cao Dã là thầy của Thái úy Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa... Nho học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy. Nho học mở đường xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử;[1] nhờ đó thúc đẩy văn học phát triển, văn hóa được nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác gia, đi sâu vào triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách vở bị cướp, đốt mất quá nhiều, tư tưởng học thuật của tiên Nho Việt Nam hầu như không còn lưu lại gì cho đời sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho giáo Việt Nam, cái nổi bật hình như không phải là tư tưởng triết học, mà lại là văn chương, khoa cử, và vai trò chính trị của sĩ phu trong lịch sử. 1.1. Sự phát triển của Nho giáo qua các triều đại Việt Nam: a. Đời Lý (1010-1225) Nho học mới hưng phát. Vua Lý Thánh tông cho lập Văn miếu, làm tượng thờ Chu công, Khổng tử, bảy mươi hai tiên hiền (1070).[2] Vua Lý Nhân tông mở khoa thi đầu tiên tên là Tam trường (1075), Lê Văn Thịnh đậu thủ khoa; mở Quốc tử giám (1076); lập Hàn lâm viện (1086), tuyển Mạc Hiển Tích làm hàn lâm học sĩ. [3] Danh nho triều Lý có Lý Đạo Thành, Trương Bá Ngọc, Tô Hiến Thành... b. Đời Trần (1225-1400) Vua Trần Thái tông mở khoa thi Thái học sinh (1232); khoa Tam giáo (1247) và mở khoa Tam khôi (1247) tuyển trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Khoa ấy, Lê Văn Hưu đổ bảng nhãn, là sử gia Việt Nam đầu tiên, tác giả Đại Việt sử ký. Vua còn mở Quốc học viện (1253) giảng Tứ thư, Ngũ kinh.[4] Đời Trần Duệ tông khoa thi Thái học sinh được đổi thành Tiến sĩ (1374).[5] Đời Trần Nghệ tông, Lê Quý Ly soạn sách Minh đạo (1302), dịch thiên Vô dật ở kinh Thư (1394) để dạy thái tử (sau lên ngôi là Thuận tông), dịch kinh Thi dạy nội cung (1396). Đời Thuận tông, Lê Quý Ly làm thái sư, nắm quyền phụ chính, cải cách thi cử, ấn định lương bổng của các quan dạy học ở địa phương. Văn học đời Trần rất thịnh, nhờ khoa cử thúc đẩy. Danh nho có Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (viết Giới Hiên toàn tập), Trương Hán Siêu, Lê Lập, Phạm Sư Mạnh (viết Hiệp Thạch tập), Chu An (viết Tứ thư thuyết ước, Tiều Ẩn thi), Hàn Thuyên... c. Đời Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1413), Minh thuộc (1414-1427) Hồ Quý Ly thay nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Nước loạn, quân Minh xâm lăng, cướp sách vở đưa về Kim Lăng; những gì không đem được thì đốt, thiệt hại không kể xiết. Nhà Minh đưa Tống Nho vào Việt Nam. d. Đời Hậu Lê (1428-1788) Nho học rất được chú trọng, được tôn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy, hình thành tầng lớp nho sĩ trí thức đông đảo. Kinh đô có Quốc tử giám, Thái học viện. Vua Lê Thánh tông chia nước làm mười ba đạo, hầu hết các đạo ở đồng bằng đều lập trường công, ấn định quy chế thi cử. Năm 1463 có chừng 1400 người thi Hội ở Thăng Long; năm 1475 tăng lên khoảng 3000 thí sinh. Từ triều Lê, người thi đậu rất vẻ vang: có lễ xướng danh, lễ vinh quy, lễ khắc tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn miếu. Danh Nho đời Lê có Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Thế Vinh, Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Giáp Hải, Nguyễn Mậu Nghi, Phạm Công Trứ, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hãng, Phạm Đình Trọng, Lê Quý Đôn, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên... e. Đời Tây Sơn (1788-1802) Sau khi đánh bại quân Thanh giữa năm Kỷ dậu (1879), vua Quang Trung lập Sùng chính viện, cử La Sơn Phu tử Nguyễn Thiệp làm viện trưởng, với trọng trách chấn chỉnh lại Nho học Việt Nam. La Sơn Phu tử dịch xong các sách Tiểu học, Tứ thư và Ngũ kinh ra chữ Nôm, chưa kịp cải cách thì vua Quang Trung mất. f. Đời Nguyễn (1802-1945) Nền học thuật gắn liền khoa cử ngày càng suy. Thực dân Pháp xâm chiếm đất nước. Cái học theo phương Tây khởi sự chen vào. Nền Nho học cử nghiệp cổ truyền dần dần mai một, chấm dứt năm 1915 ở miền Bắc, rồi 1918 ở miền Trung. 1.2. Các tấc phẩm triết học của Nho gia Việt Nam: Nhà nho có danh đời nào cũng xuất hiện, tên tuổi còn ghi lại nhiều. Ngoài công lao kinh bang tế thế, tiên nho Việt Nam còn giúp vào việc giáo hóa, trứ tác thơ văn nhiều loại. Riêng về mặt triết học, cũng rất phong phú, không những phô diễn đạo lý cổ truyền Khổng-Mạnh, Trình-Chu mà còn bày tỏ ít nhiều quan điểm riêng của người Việt, thể hiện hoặc tinh thần độc lập hoặc ý thức đối kháng với tư tưởng Trung Hoa. Tiếc thay, sách vở đã bị thất tán, tiêu hủy sau bao thế kỷ binh lửa. Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Tìm hiểu kho sách Hán-Nôm của Trần Văn Giáp là hai trong những tài liệu quý hiếm, kể ra được một phần nào sách vở còn giữ lại hay còn ghi nhận được, nhờ đó cũng giúp đời sau có cái nhìn khái lược về tư tưởng triết học của nhà Nho Việt Nam đời trước. Căn cứ hai tài liệu ấy, qua một số tác phẩm mang tính triết học, giáo dục của người Việt, có thể dẫn lại một ít nhan đề tiêu biểu như sau (không nói tới sách khảo cứu lịch sử, địa dư, sáng tác văn chương): Tứ thư thuyết ước, mười quyển, Chu An (?-1370) đời Trần soạn, nay không còn. Chu An tự Linh Triệt, hiệu Tiều Ẩn, thụy Văn Trinh, tôn hiệu Khang Tiết Tiên sinh, người xóm Văn Thôn, làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội sau này). Đậu thái học sinh, không ra làm quan, ở nhà dạy học, nổi tiếng đạo đức, rất đông học trò. Đời Trần Minh tông được mời ra làm quốc tử giám tư nghiệp. Đời Trần Dụ tông, dâng sớ xin chém bảy nịnh thần, Vua không trả lời, ông từ chức về ẩn ở núi Kiệt Đặc (sau là núi Phụng Hoàng, huyện Chí Linh, thuộc Hải Hưng sau này). Tháng 12-1370, được đưa vào thờ ở Văn Miếu. Chu dịch quốc âm giải nghĩa, hai quyển, cũng gọi Chu dịch quốc âm ca [quyết], Đặng Thái Phương [hay Bàng] (1674-?),đời Hậu Lê soạn xong trước năm Quý hợi (1743). Tác phẩm dùng thơ lục bát giải nghĩa từng hào (diễn ca); như quẻ Càn, hào sơ cửu Tiềm long vật dụng (rồng ẩn náu chớ nên dùng) diễn ca là: Sơ cửu hào nghĩa tiềm long, Bé còn ở dưới mà dùng làm chi. Đặng Thái Phương người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An (xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Nghệ Tĩnh sau này). Năm hai mươi hai tuổi thi đậu khoa Hoành từ, làm tri huyện Giáp Sơn (trấn Hải Dương), thăng hiệp trấn, rồi hiến sát sứ Thanh Hóa. Năm 1743 làm tham nghị xứ Sơn Nam. Tứ thư ngũ kinh toản yếu, mười lăm quyển, Nguyễn Huy Oánh (1713-1798) đời Hậu Lê soạn. Ông tự là Thư Hiên, hiệu Thạc Đình, người làng Lai Thạch, huyện La Sơn, Nghệ Tĩnh. Đậu thám hoa (1748), làm quan đông các đại học sĩ (1765), thăng lại bộ tả thị lang (1766) làm chánh sứ sứ bộ sang cống triều Thanh, trở về thăng tước bá, rồi tước thạc lĩnh hầu, nghỉ hưu, lại được mời ra làm quan, thăng đô ngự sử. Tính lý toản yếu, hai quyển, Nguyễn Huy Oánh soạn. Quyển này và quyển trên nhằm tóm tắt các sách Tứ thư, Ngũ kinh, Tính lý, tiện lợi cho Nho sinh chuẩn bị thi cử.[9] Thánh mô hiền phạm lục, mười hai quyển, Lê Quý Đôn (1726-1784) đời Hậu Lê soạn. Ông tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, quê làng Duyên Hà (Diên Hà?), huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Làm quan giữ chức thị độc Tòa Hàn lâm, sung tư nghiệp Quốc tử giám, làm phó sứ sang Trung Quốc, tước Dĩnh thành bá, rồi lần lượt giữ rất nhiều chức vụ quan trọng. Khi mất được truy tặng thượng thư Bộ Công, tước Dĩnh thành công. Tác phẩm rất nhiều. Khi soạn Thánh mô hiền phạm ông trích lục nguyên văn những lời nói của thánh hiền, xếp loại, chia thành mười hai đề mục, ghi rõ xuất xứ từng câu đã trích trong Dịch, Thi, Thư, Xuân thu Tả truyện, Lễ ký, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Gia ngữ, Hiếu kinh, Mạnh tử, Chu tử, Quốc sách, Quốc ngữ, Sử truyện, Tiên nho cách ngôn...[10] Thư kinh diễn nghĩa, ba quyển, Lê Quý Đôn soạn. Trong bài Tựa viết năm 1772, ông bày tỏ: “Tôi thường nghe, trị thiên hạ không thể không có chính sự, mà xưa nay người bàn về chính sự thường lấy sách Thượng thư làm gốc. (...) Tôi thật ngu lậu, nghiền ngẫm lâu năm, hiểu qua nghĩa lớn, mỗi khi đọc sách ấy chỉ cảm thấy ý vị dạt dào, lý thú vô cùng, chỗ nào xúc động mà phát minh thì tùy ý chép lại, chứng dẫn các truyện ký, bàn bạc việc xưa nay, đều là muốn làm ấn chứng cho sách của thánh nhân. Hễ chỗ nào cốt yếu thì thường thường nêu ra, ý muốn cho những người làm tôi sau này, trong khi xem sách và xét mình, thấy điều hay điều phải thì hăng hái phấn khởi; thấy điều xấu điều trái thì sợ hãi e dè, để mà chăm lo công việc, giữ gìn chức vụ, họa chăng có ích. Còn như noi gương điều đã thành công, răn dè điều đã thất bại, giữ thịnh phòng suy, sách này cũng có thể dùng làm sách để nhà vua có bên cạnh mình mà xem luôn, dùng làm công cụ lấy đức trị dân. Đến như những lời truyện, lời chú của tiên nho, hoặc có chỗ giống nhau khác nhau và có chỗ đáng ngờ thì đều có biện chính sơ qua...” [11] Dịch kinh phu thuyết, năm quyển, Lê Quý Đôn soạn. Trong bài Tựa, ông viết: “Sáu kinh là dạy về cách trí, thành chính, tu tề, trị bình, nhưng công việc về trời đất, về người, cùng là phép tắc của muôn vật, thì chỉ kinh Dịch là đầy đủ (...). Khổng tử lúc tuổi già mới thích học Dịch. Khi sửa dọn sáu kinh (...) chỉ riêng kinh Dịch thì làm phần Thập dực, tức là mười phần chú giải của kinh Dịch (...), giải thích rộng rãi, không quản nhiều lời. Văn chương của Khổng tử là ở đó mà lời nói về tính và đạo Trời của Khổng tử cũng là ở đó, cốt để chỉ vẽ cho thiên hạ và đời sau, tha thiết biết là nhường nào! Tôi từng trộm bàn, đạo trời đất vốn hữu thường, thế mà khi đầy khi vơi, lúc thịnh lúc suy, sự biến đổi xưa nay không cùng; lòng yêu ghét, lúc hợp tan, tình của người và vật không chỉ một mối mà đều tóm cả ở trong 384 hào của 64 quẻ. Quẻ có tác dụng tùy thời của quẻ, hào có tác dụng tùy thời của hào, thánh nhân không có chỗ nào là không dạy người tu cái đạo khuôn xử: như thế là lành, như thế là dữ, như thế là nên lo ngại, như thế là không tai vạ, dùng hình tượng rất tinh mà không ngoài các đạo thường về nhân luân và nhật dụng. (...) Nay hãy đem lời nói trong Đại tượng các quẻ mà nói, (...) chỉ một câu, nửa lời, mà dùng không thể xiết, đức cao nghiệp rộng, thực là ở đó. Huống chi, thông suốt các quẻ, nghiền ngẫm các hào, trên thì suy đến đạo Trời, dưới thì xét đến tình vật, giữa thì tham khảo sự tích của cổ nhân, lời nói việc làm đều trung chính, khi động khi tĩnh rất kính thành, để cho giữ được tốt lành, khỏi được hung dữ, đó chẳng phải là sơ ý lập giáo của thánh nhân ru? Tôi ngu hèn học kém, kính đọc lời dạy của thánh nhân, nghiên cứu truyện nghĩa của họ Trình, họ Chu, xét thêm những lời chú thích của tiên nho, có khi xúc động mà phát minh ra, nói thêm mấy lời, gồm có năm quyển, chỉ cốt để sửa lấy tâm thân cho ít lầm lỗi. Còn đem thi thố không nói mà tin là cốt ở đức hạnh, các sĩ quân tử học kinh Dịch thì không những là chỉ xem tượng mà học thuộc lấy lời, xem biến mà học thuộc câu bói, còn cần phải cẫn thận đức hạnh để hiểu ngầm ý của thánh nhân ở ngoài lời sách nói mới được.” Âm chất văn chú, hai quyển, Lê Quý Đôn soạn. Âm chất văn tương truyền là của Văn Xương Đế quân, nói về thiện ác báo ứng, bao gồm tư tưởng Tam giáo. Trong Đề từ, Lê Quý Đôn cho biết ông đã căn cứ theo Đan quế tịch, bốn quyển, của Hoàng Chính Nguyên đời Thanh (1761) và Âm chất văn chú, hai quyển, của Tống Tư Nhân đời Thanh (1776).[13] Lê Quý Đôn viết: “Văn Xương Đế quân có bài huấn gồm 541 chữ. Các bực hiền triết xưa suy diễn ý chỉ để giúp cho người ghi nhớ mà cố sức theo. Lại chép những việc thiện ác báo ứng ngay dưới mỗi tiết, khiến cho người ta ham làm thiện mà không dám làm ác, sách ấy có quan hệ rất lớn đến việc dạy đời. “(...) Tôi không tự xét mình, nhân lấy hai sách ấy [của họ Hoàng, họ Tống] bổ thêm vào một ít, chia làm hai quyển, trong phần diễn bỏ chỗ chú cũ đi, có khi bớt những chữ rườm, thay đổi cước chú, xếp theo từng loại, tất cả là 283 việc, cốt cho lời gọn mà nghĩa sáng, việc rành mạch mà lẽ rõ rệt. Trước là để tự răn lòng xét mình, tu dưỡng tính tình, cố gắng sao cho đến được chỗ ít lầm lỗi, sau là để dạy con cháu, phổ khuyến nhân sĩ, mong cho đều biết sửa mình theo lễ, giữ đức dựa nhân, để thành người quân tử, không đến nỗi làm kẻ tiểu nhân. “(...) Tôi từng trộm nghĩ: Người ta không ai không có nhân tâm, không ai không có đạo tâm, nhân tâm tức là nhân dục, đạo tâm tức là đạo lý. Giữ được một phần thiên lý thì bỏ được một phần nhân dục. Nhân dục thắng thì làm ác, thiên lý thắng thì làm thiện. (...) Nói về một nhà thì nhờ đó mà có thể được lành mạnh và hưởng phước lộc; nói về một nước, cho đến cả thiên hạ, thì nhờ đó mà có thể làm cho phong tục tốt, đưa đến cõi thái bình. Đạo lý ấy rất lớn, độc giả nên kính cẩn giữ lấy mà cố gắng làm theo.” Vân đài loại ngữ, bốn quyển, Lê Quý Đôn soạn. Sách gồm chín đề mục, trong đó đề mục thứ nhất là Lý khí ngữ, gồm 54 điều v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan niệm của con người trong triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến quá trình xây dựng con người Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan